Giải đáp cuộc sống

Nghiên cứu – Trao đổi

bao điện tử Vietnamnet số ra ngày 3/2004 Trong bài phỏng vấn giáo sư ỗ ỗ trần cort về tiêu chuẩn mới trong việc pHong chức danh giáo sưccc /sa.

“phóng viên: “thực ra, đến nay vẫn chưa có định nghĩa nào về ‘bài báo khoa học’. vậy năm nay, với những sửa đổi như ông nói thì quy định về “bài báo khoa học” có gì khác?

trả lời: bài báo khoa học phải là công trình khoa học chứa đựng kết quả nghiên cứu mới, phù hợp với chuyên ngành đăng kû bài báo đó phải được công bố trên một trong những tạp chí khoa học chuyên ngành quy định . Cụ thể là: các tạp chí uy tín do các hội ồng chức danh giáo sư ngành, líên ngành lựa chọn, ề nghị thường trực hội ồng nhà nước vềc chức giac sư sư ịtnm. giaoduc/vande/2004/03/54931/, truy nhập ngày 11/22/2005)

Ở đây, trong khuôn khổ bài viết này, tôi sẽ nới rộng định nghĩa trên và cụ thể hóa thế nào là một bài báo khoa học. tôi sẽ xoay quanh ba khía cạnh chính: phân loại bài báo khoa học, tập san khoa học và cơ chế bình duyệt bài báo khoa học.

trong hoạt động nghiên cứu khoa học, bài báo khoa học đóng một vai trò hết sức quan trọng. nó không chỉ là sản phẩm tri thức, mà còn là một loại tiền tệ của giới làm khới học, bởi vì qua đn mà người ta có đánh giá khảng vàn . Giới Làm nghiên cứu khoa học nói chung nhất trí rằng cai chỉ tiêu số 1 ể ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề thước đo về trình độ khoa học kĩ thuật và hiệu suất khoa hớc mc c. chynh vì thế mà tại các nước tây phương, chynh phủ có hẳn một cơ quan gồm những chuyên gia chuyên đo ếm và đánh giá những bài cáo cáo khoa há

nhưng cũng giống như sản phẩm công nghệ có nhiều hình thức và giá trị khác nhau, các bài báo khoa học cũng xuất hiện dưới dềnkhác nhiềc. Đối với người ngoài khoa học và công chúng nói chung, phân biệt được những bài báo này không phải là một chuyện dễ dàng chút nào. thật ra Thoo Kinh nghiệm của người viết bài này, ngay cả trong giới khoa bảng và giáo sư ại học, co khán nhiều ngườn chưa ết thỉ nà một bài bái bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá bá ể C. Giáo sư đã Trình Bày Trong Lí Lịch Khoa Học Của Mình Một Cách Thiếu Chính Xác, Có Khi Khá Khôi Hài. Bài viết ngắn này sẽ bàn qua về tiêu chuẩn của một bài bài bài bài bài bài bài bài viết này ược rút ra từ kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực y sinh học, và có thể không hoàn toàn đúng cho các lĩnh vực nghi ghn cức m. >

bai bao khoa học

nói một cach ngắn gọn, bài báo khoa học (tiếng anh: “paper scientist” there thống bình duyệt (peer review) của tập san. Ở đây có ba vế của định nghĩa mà bài này sẽ lần lược bàn đến: nội dung bài báo, tập san, và cơ chếy bìstrong >. trước hết xin bàn về nội dung khoa học của một bài báo.

như nói trên, giá trị khoa học của một bài báo tùy thuộc một phần lớn vào nội dung của bài báo. bởi vì báo cáo khoa hoc xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, giá trị của chúng cũng không nhất thiết đồng nhất. sau đây là một số bài báo khoa học thông thường và tôi xếp loại theo thang giá trị (cao nhất đến thấp nhất).

thứ nhất là những bài báo mang tính cống hiến nguyên thủy (original contributions). Đy là những bài báo khoa học nhằm báo cáo kết quả một công trình nghiên cứu, hay ềề ra một phương pháp mới, một ý tưởng mội, hay mộch dich mội. có khi một công trình nghiên cứu có thể có nhiều phát hiện mới, và cần phải có nhiều bài báo nguyên thủy để truyền đạng phàyt nháy. một công trình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized clinical trials) hay một công trình dịch tễ học lớn có thể có đến hàn.thy trăm.

cống hiến mới cho khoa học không chỉ giới hạn trong phát hiện mới, mà có thể bao gồm cả những phương phap mới ể tiếp cận một vấn ề ề ề ề ề ề ề ề do đó các bài báo khoa học ở dạng này cũng có thể xem là những cống hiến nguyên thủy. tất cả những bài báo này đều phải qua hệ thống bình duyệt một cách nghiêm chỉnh.

tất cả các bài báo thể hiện những cống hiến nguyên thủy, trên nguyên tắc, đều phải thông qua hệ thống bình duyệt kỰ bđng. một bài báo không hay chưa qua hệ thống bình duyệt chưa thể xem là một “bài báo khoa học”.

thứ hai là những bài báo nghiên cứu ngắn, mà tiếng anh thường gọi là “brief communications”, there are “letters of inquiry”, there are “brief documents”, v.v… ến 1000 chữ, tùy theo qui ịnh cửnh của tế san) mà nội dung chủ yếu tập trung giải quyết một vấn ềề rất hẹp hay báo cáo một phát hiện nhỏ nhưng quan trọng. những bài báo này vẫn phải qua hệ thống bình duyệt nghiêm chỉnh, nhưng mức độ rà soát không cao như các bài báo cống hiỿn nguyêyn th. cần phải nói thêm ở đây là pHần lớn những bài báo công bố trên tập san nsture (một tập san uy tín vào hàng số 1 trong khoa học) là “letters”, nhưng thựt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt no. khoa học rất cao, chứ không phải những lá thư thông thường.

thứ ba là những báo cáo trường hợp (case reports). Trong and Học Có Một loại bài báo khoa học xuất hiện dướng báo cao trường hợp, mà trong đó nội dung xoay quanh chỉ một (hay một số rất ít ít) bệnh nhân ặc biệt. Đy là những bệnh nhân co -những bệnh rất hiếm (có thể 1 trên hàng triệu người) và những thông tin như thế cũng thể hi một sự cống hiến tri thức choc and học. những báo cáo trường hợp này cũng qua bình duyệt, nhưng nói chung không khó khăn như những bài báo nguyên thủy.

thứ tư là những bài điểm báo (reviews). có khi các tác giả có uy tín trong chuyên môn được mời viết điểm báo cho một tập san. những bài điểm báo không phải là những cống hiến nguyên thủy. NHư Tên Gọi (Cũng Có Khi Gọi Là papers perspective) những bài điểm báo thường không qua hệ thống bình duyệt, hay có qua bình duyệt nhưng không nghiêm chỉnh như những bài báo khoa học nguyên b

thứ năm là những bài xã luận (publishers). Có khi tập san công bố một bài báo nguyên thy quan trọng với một phát hiện fo ý nGhĩa lớn, ban biên tập có thể một chuy chuyn gia viết bình lận về phat ện đn đn đn đn đn đn đn đn đn đn đn đn đn đn đn xã luận cũng không phải là một cống hiến nguyên thủy, do đó giá trị của nó không thể tương đương với những bài báo nguyên thủy. thông thường, các bài xã luận không qua hệ thống bình duyệt, mà chỉ được ban biên tập đọc qua và góp vài ý nhỏ trước khi công bố.

READ  Hướng dẫn cách lấy lại tên đăng nhập Internet Banking ACB

thứ sáu là những thư cho tòa soạn (letters to the editor). nhiều tập san khoa học dành hẳn một mục cho bạn đọc phản hồi những bài báo đã đăng trên tập san. Đy là những bài viết rất ngắn (chỉ 300 ến 500 chữ, there are một trag – ty theo qui ịnh của tập san) của bạn ọc về một điểm nhỏ nào đó của bric bá -bá đé đé đé những thư này thường phê bình hay chỉ ra một sai lầm nào đó trong bài báo khoa học đã đăng. những thư bạn đọc không phải qua hệ thống bình duyệt, nhưng thường được gửi cho tác giả bài báo nguyên thủy để họl đáp. tuy nói là thư bạn đọc, nhưng không phải thư nào cũng được đăng, nếu không nêu được vấn để một cách súc tích và nghcó ý.

và sau cùng là những bài báo trong các kỉ yếu hội nghị. Trong Các Hội NGHị Chuyên Ngành, Các Nhà Nghiên Cứu Tham Dự Hội NGHị Và Muốn Trình Bày Kết Quả Nghiên Cứu Của MìnH Thường Gửi Bài Báo ể đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ có hai loại bài báo trong nhóm này: nhóm 1 gồm những bài báo ngắn (minute documents), và nhóm 2 gồm những bản tóm lược (summaries).

những bài báo xuất hiện dưới dạng “papers” thường ngắn (khoảng 5 ến 10 trang), mà nội dung chủ yếu là báo cao sơ ​​bộ những phát hiện ha pHương phap nghiên cứi. Tù Theo Hội NGHị, ại đa số những bài báo dạng này không phải qua hệng thống bình duyệt, hay cana nhưng cũng không nghiêm chỉnhnhư hệng bình dh dh dung cũng không </

Các Bản Tóm lược, như tên gọi, thực chất là những bản tin khoa học ngắn (chỉ dài từ 250 chữn 500 chữ) mà nội là tắt một công trình nghiên cứu. những bản tin này cũng không qua hệ thống bình duyệt. . làm công việc bình duyệt bài vở một cách kĩ lưỡng và có hệ thống. phần lớn, nếu không muốn nói là 100%, các bài tóm lược đều được chấp nhận cho in trong các kĩ yếu của hội nghị. MộT Lílo ể Chấp nhận tất cả các bài tóm lược là tổc chức muốnco nhiều người dự hội nghị (nhiều người tham dự cũng Co ngha là tĂng thu nhập choc choc tổc) no.

tập san khoa học và hệ số ảnh hưởng

trong hoạt ộng khoa bảng, các tập san khoa học là những tờ báo xuất bản ịnh kì, có thể là mỗi tuần một lần, mỗi tháng, hay mỗi 3ỗi chí tháng. mục tieu chính của các tập san khoa học là chuyên chở thông tin đến giới nghiên cứu khoa học nhằm từng bước phát triển khoa học. các tập san khoa học còn là những diễn đàn khoa học để giới khoa học có cùng chuyên môn trao đổi và học hỏi với nhau. phần lớn các tập san khoa học rất chuyên sâu về một bộ môn khoa học như american journal of heart (chuyên về tim), american journal of epidemiology (dịch tễ học), bone (xươn), neurology (xưƍn) … một số tập san như science, nature, proceedings of the united states national academy of sciences… công bố tất cả nghiên cứu từ bất cứ bộ môn khoa học nào

trên thế giới ngày nay, có khoảng 3000 tập san and sinh học được công nhận, và with số vẫn tăng mỗi năm. (Được công nhận ở đây có nghĩa là được nằm trong danh sách của tổ chức index medicus). tiêu chuẩn mà các tập san này dựa vào để công bố hay không công bố một bài báo khoa học cũng rất khác nhau. MộT Số TậP San NHư Science, Nature, Cell, there are Physical Reviews Chỉ Công Bố Những Bài Báo Khoa Học Mà Ban Biên Tập Cho Rằng Thể Hiện Những Cống Hiến cơ Bản, NHữNG Phát HiT Hiện Quen ứNG do đó, các tập san này từ chối công bố hầu hết các bài báo khoa học gửi đến cho họ. theo một báo cáo gần đây các tập san này chỉ công bố khoảng 1% những bài báo họ nhận được hàng năm. nói cách khác, họ từ chối khoảng 99% bài báo. trong y học, các tập san hàng đầu như new england journal of medicine, lancet, và jama từ chối khoảng 95% các bài báo gửi đến, và chỉ công bố những bài báo quan trong kho.

giá trị khoa học của một bài báo do đó không chỉ tùy thuộc vào nội dung, mà tập san công bố cũng đóng một vai trò quan trọng. chẳng hạn như trong and học một bài báo trên các tập san lớn như new england journal of medicine (nejm) hay lancet có giá trị hơn hẳn một bài báo trên các tập san and học cap. Điều này đúg bởi vì những công trình nghiên cứu quan trọng thường ược công bố trên các tập san lớn và Co nhiều người ọc, nhưng trọng hơn ìt ìt ìt ìt ìt.

uy tín và giá trị của một tập san thường được đánh giá qua hệ số ảnh hưởng (impact factor is yes). if được tính toán dựa vào số lượng bài báo công bố và tổng số lần những bài báo đó được tham khảo hay trích dẫn (quotations). theo định nghĩa hiện hành, si của một tập san trong năm là số lần tham khảo trung bình các bài báo được công bố trên tập san trong vòm 2 [ưc 2]. chẳng hạn như trong 2 năm 1981 và 1982, tập san lancet công bố 470 bài báo khoa học nguyên thủy; trong năm 1983 có 10.011 bài báo khác trên các tất cả các tập san (kể cả lancet) có tham khảo hay trích dẫn đến 470 bài báo đó; và hệ số si là 10,011 / 470 = 21.3. nói cách khác, tính trung bình mỗi bài báo nguyên thủy trên tờ lancet có khoảng 21 lần được tham khảo đến hay trích dẫn.

vì yếu tố thời gian của việc tính toán, cho nên hệ số if cũng thay đổi theo thời gian và cách xếp hạng tập san cũng thay đổi theo. CHẳNG HạN NHư Vào Thập Niên 1990s British Medical Journal Từng NằM Trong NHóm Các Tập San Hàng ầu Trong and HọC, NHưNG ếN ầU THế Kỉ 21 TậP San Này Bị Xuống cấp nghiêm Trọng. trong and sinh học, có một số tập san and học thuộc vào hàng “top 10” như sau (theo số liệu năm 2003): annual review of immunology. (52.28), Annual Review of Biochemistry (37.65), Physiological Reviews (36.83), Nature Reviews of Molecular Cell Biology (35.04), New England Journal of Medicine (34.83), Reviews of nature cancer (33.95), nature (30.98), nature medicine (30.55), annual journal of neuroscience (30.17), science (29.16), cellular (26.63), nature genetics ( 26.49), lancet (18.32), clinical research journal (14.30), v.v… (chi tiết có thể tham khảo trong bản thống kê phía dưới bài viết).

do đó, tập san nào có hệ số si cao cũng được hiểu ngầm là có uy tín cao và ảnh hưởng cao. công bố một bài báo trên tập san có hệ số if cao có thể đồng nghĩa với mức độ quan trọng và tầm ảnh hưởng của bài báo cũng cao. Xin nhấn mạnh là “có thể” mà thôi, bởi vì qua cach tính vừa trình bày trên, if là chỉ số pHản ang ảnh hưởng của một thảp san, chứ không đo lường hhệ ảnh hưởh h ể một bài báo trên một tập san có hệ số if thấp nhưng có thể được trích dẫn nhiều lần. CHẳNG HạN NHư MộT Bài Báo Viết Vềt Một Phương Phapp Phân Tích Thống Kế Trong Di Truyền Học Công Bố Trên Tập San Behavior Genetics (Với IF Thấp Hơn 2), NHưNG ượC Trich DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD DD D.

READ  Ngành quản trị nhân lực là gì? Những kỹ năng của người quản trị giỏi

khiếm khuyết của hệ số if đã được nêu lên khá nhiều lần trong qua khứ [3,4]. ngay cả người sáng lập ra hệ số if cũng thú nhận những thiếu sót của hệ số này. Một số bộ môn khoa họcc cor xu hướng (there are Truyền thống) công bố ra nhiều bài báo ngắn, there are ơn thuần là họ có truyền thống trích dẫn lẫn nhau, thậm chí tự tự tự mình trír trích dẫn dẫn dẫn dẫn dẫn Co nhiều nhà khoa học trích dẫn there are liệt kê những bài báo mà học là không there are chưa ọc (nhưng chỉ trích dẫn Theo sự tín của của người khác, đy là một vi phạt. NHư and KHOA CHẳNG HạN) CO NHIềU NHà NGHIêN CứU Và with số bài báo cũng như chỉg sốg cũt trích trích.oĂn nói một cach ngắn gọn, with số thống kê bài báo và chỉ số trích dẫn dẫn vi hƺn l chọkho. cũng không loại trừ khả năng những công trình nghiên cứu tồi, sai lầm vẫn ược nhiều người nhắc ến và trích dẫn (ể làm gương cho người khcc). phần lớn những bài báo được trích dẫn nhiều lần là những Bài báo liên quan ến phương phap, there are thuộc loại điểm bao. nhiều nghiên cứu “tốt”, có chất lượng thường đi trước thời gian, và người ta chỉ hiểu rõ giá trị

bíết rằng hệ số if with nhiều khiếm khuyết như thế, nhưng hiện nay chung ta chưa có một hệng nào công bằng và tốt hơn ểm ịm ịnh chất lượt lượt lượt lượt lượt tật tật tật tật tt tt tt tt t cho nên, hệ số if vẫn được sử dụng như là một thước đo chất lượng, với một sự dè dặt và cẩn thận cầtn thi>

cơ chế bình duyệt

Để hiểu cơ chế bình duyệt, tôi xin nói sơ qua về qui trình công bố một bài báo khoa học như sau. SAU KHI TAC GIả GửI BảN THảO có xứng đáng được gửi ra ngoài để bình duyệt hay không. nếu không xứng đáng, tổng biên tập sẽ báo ngay (trong vòng 1 tháng) cho tác giả biết là bài báo không được bình duyệt. nếu thấy bài báo có giá trị và cần được bình duyệt, tổng biên tập sẽ gửi bản thảo cho 3 (hoặc có khi 4) người bình duyệt.

những người bình duyệt là những chuyên gia, giáo sư có cùng chuyên môn với tác giả và am hiểu về vấn đề mà bài báo quan tâm. tác giả sẽ không biết những người này là ai, nhưng những người bình duyệt thì biết tác giả là ai vì họ có toàn bộ bản thảo! những người bình duyệt sẽ đọc và đánh giá bài báo dựa theo những tiêu chí thông thường như mục tiêu nghiên cứu có đem lại cái gì mới không, phương pháp nghiên cứu có thỏa đáng hay không, kết quả đã được phân tích bằng các phương pháp thích hợp hay không, trình bày dữ kiện có gọn gàng và dễ hiểu hay không, phần thảo luận có diễn dịch “quá đà” hay không, phần tham khảo có ị ị. hay không, vv và vv nói tóm lại là họ xem xét toàn bộ bài báo, và viết báo cáo cho tổng biên tập. họ có thể đề nghị tổng biên tập nên chấp nhận hay từ chối đăng bài báo. tuy quyết ịnh cuối cùng là của tổng biên tập, nhưng thông thường chỉt một người bình duyệt ềề nghị từ chối bài báo thì số phận bài báo coi như “đã rồi”. giai đoạn này tốn khoảng 1 đến 4 tháng.

sau khi đã nhận được báo cáo của người bình duyệt, tổng biên tập sẽ chuyển ngay cho tác giả. Tù Theo ề NGHị của những người bình duyệt, tổng biên tậpc có thể cho tc giả một cơ hội ểể pHản hồi những phê bình của người bình duyệt, there is từ -đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ nếu có cơ hội phản hồi, tác giả phải trả lời từng phê bình một của từng người bình duyệt. bài phản hồi phải được viết như một báo cáo, và tất cả những thay đổi trong bài báo tác giả phải báo cho tập san biết. giai đoạn này tốn từ 1 đến 3 tháng.

sau khi nhận được phản hồi của tác giả, tổng biên tập và ban biên tập có thể quyết định chấp nhận hay từ chối bào. NếU Bài phản hồi không trải tất cả pHê bình, there are trảii không thỏa đáng, tổng biên tập có từ từ chối đĂng bài ngay mà không cần gửi cho người bình duyệt xem lại. NếU Bài phản hồi cần xét lại tổng biên tập sẽ gửi cho những ng người bình duyệt xem lại một lần nữa và tonc giảcoc khi phải phản hồi một lần sau c c ”. giai đoạn này cũng tốn từ 1 đến 3 tháng.

nói chung một bài báo từ lúc nộp bài cho ến lúc xuất hiện trên mặt giấy – nếu mọi bình duyệt và pHản hồi ều trôi chảy – tốn khoảng 9 that ến 12 that. bởi vì thời gian quá lâu như thế, cho nên một số tac giảcoc khi quyết ịnh tự công bốc trước dưới dạng sơ bộ (còn gọi là “pre -protest”) ể Chia sẻ với ồng nghiệp. ngày nay, với sự tiến bộ phi thường của công nghệ thông tin và internet, nhiều tập san đã có thể công bố ngay bài báo trên hệ thống internet (trƿớc khi). một số tập san còn hoạt động hoàn toàn trên hệ thống internet mà không phải qua hình thức in ấn gì cả.

cơ chế bình duyệt là một cơ chế có mục đích chính là thẩm ịnh và kiểm tra các bài báo khoa học trước khi chấp nhận cho cho cho bỻ trên hận hố tế. cơ chế này còn được ứng dụng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên cứu tại các nước tây phương. tuy một cơ chế bình duyệt như thế không phải hoàn ton vô tư và hoàn hảo, nhưng nó là một cơ chế tốt nhất hiện nay mà giới khoa họcửn .

như trình bày trên, cơ chế bình duyệt có mục đích chính là đánh giá và kiểm tra các bài báo khoa học trước khi chấp nhận cho công bỻ trên mố cÍpí. cơ chế này còn được ứng dụng trong việc duyệt những đơn xin tài trợ cho nghiên cứu. qua cơ chế này mà tập san có thể ngăn chận những cặn bã, rác rưởi khoa học, và giúp cho tập san hay các cơ quan cấp tài trợ đi ến một quyዻ. trên nguyên tắc, đây là một cơ chế hay và công bằng, bởi vì những người duyệt bài hay công trình nghiên cứu là những người có cùng chuyên môn, họ chính là những người có thẩm quyền và khả năng đánh giá chất lượng của công trình nghiên cứu. nhưng nhà khoa học cũng chỉ là những người có tình cảm và thiên kiến, cũng là những người chịu sự chi phối của các nhu cầu tất yếu, cũng cạnh tranh, cho nên kết quả duyệt bài khoa học không phải lúc nào cũng hoàn toàn khach quan. rất nhiều người từng trải qua cái cơ chế này cho rằng đó là một hệ thống không hoàn chỉnh và có khi thiếu công bằng. tuy nhằm mục đích ngăn chận Rác rưởi khoa học, nhưngcơ chế kiểm duyệt bài vở không thể (there are ít khi nào) phar ện những lỗi lầm mang tính c c c c c c Cla ý do đó, đối với một số nhà khoa học, cơ chế bình duyệt là một cách làm việc vô bổ và vô giá trị [5,6]. nhưng vấn đề thực tế là ngoài cơ chế bình duyệt đó, chưa có cơ chế nào tốt hơn! và vì thế, chúng ta vẫn phải dựa vào cơ chế này để đánh giá một bài báo khoa học.

READ  NET Framework 4 Client Profile

Ý nghĩa xã hội của bài báo khoa học

Đọc đến đây, tôi hi vọng bạn đọc đã hiểu được thế nào là một bài báo khoa học. xin nhắc lại ể nhấn mạnh: một bài báo chỉ khi nào ược xem là “bài báo khoa học” nếu nó đã qua cơ chế bình và ược công bố mốtye trên. những bài báo xuất hiện dưới dạng “abstracts” hay thậm chí “proceedings” không thể xem là những bài báo khoa học bởi vì nó không đáp ức ứutr đưutc. thế nhưng Trong Thực tế đãc rất nhiều nhà khoa học, kể cả ở trong nước, cr lẽ do hiểu lầm đã liệt kê những “summaries” và “procedures” Đối với nhiều người không am hiểu hoạt động khoa học thì những ngộ nhận này chẳng ảnh hưởng gì to lớn, nhưng đối với giới làm nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh, một lí lịch khoa học với toàn những “bài báo khoa học” như thế cho biết nhiều về tác giả hơn là khả năng nghiên cứu khoa học của tác giả.

trên bình diện quốc gia, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng sự hiện diện, mà còn âng cao n. Ở phương tây người ta thường ếm số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí khoa học ể đo lường su hi su su sánh. hiện no, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải nhìn nhận một thực tế là hiệu suất khoa của nước ta chưa cao. phần lớn các công trình nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Ối với hoạt ộng khoa học, cho dù công trình đã ược nghiệm thu hen ưa vào luận Án tiến sĩ there are thạc sĩ, nếu chưa ược công bốn các diễn đ đ đ đ đ đ đc sĩ, nếu ược công bố n, bố n, trên các diễn đ đ đc sĩ, nếu ược c. vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hơn.

theo tác giả phạm duy hiển (tạp chí tia sáng số tháng 6 năm 2005) trong năm 2003, các nhà khoa học việt nam đã công bố trên 7000 bài bái các he trên chí chíp. With số này rất ư là ấn tượng, Song đó chỉ là những bài báo “ta viết cho ta ọc” chứ trên trường quốc tế sự hiện diện của các nhà khoa học việt nam còn rất khiêm tốn. Vẫn Theo tac giả pHạm duy hiển, Trong năm 2001 Các NHà Khoa Học Việt Nam Chỉ Công Bố ượC 354 Bài Báo Khoa Học Trên Các tập San Name Trong Ngành and Khoa, Trong Suốt 40 NĂm Qua (Tinh Từ 1965) tại việt nam chỉ có khoảng 300 bài báo trên các tập san y sinh học quếc t. Đó là những with số cực kì khiêm tốn, khi so sánh với thái lan (5000 bai) hay singapore (20,000 bai).

như đã có lần phát biểu, một công trình nghiên cứu thường được tài trợ từ tiền bạc của người dân. khi tiến hành nghiên cứu, nhà nghiên cứu có khi phải nhờ đến sự tham gia của tình nguyện viên hay của bệnh nhân. NếU MộT Công Trình NGhiên Cứu đã Hoàn Tất Mà Kết Quả Không ược Công Bố, Thì Công Trình NGhiên Cứu đó Cóc xem Là Có vấn ề Về and ức Và ạO ứO ứO ứO ứ nghĩa vụ của mình với sự đóng gop của người dân. do đó, báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa qua sự quản lí của nhà nước.

trong qua trình hội nhập thế giới, xã hội có quyền đòi hỏi nhà khoa học nước ta phải có tầm vóc và ứng vững trên trường tọc qua h. Đã ến lúc chung ta pHải ặt ra những tiêu chuẩn nghiêm túc mà quốc tế đã và đang sử dụng ể thẩm ịnh thành tích nghiên cứu khoa học các giá sư nhá nhà nhà nhà nhà nh ướ ướ nh ướ nh ướ nh ướ nh -nu ướ nu.

chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] ể xét ề Bạt Giáo Sư Trong Các ại học tây phương, ngoài các tiêu chuẩn về giảng dạy, tài trợ nghiên cứu và pHục vụ xã hội, một tiêu gad bài bài bài bai báo khoa học củc củ theo một qui định gần như “bất thành văn”, muốn được đề bạt lên “assistant teacher” (giáo sư dự khuyết) ứng viên phải có tải bhoc bho 3-5; một associate professor (phó giáo sư) phải có từ 30 bài báo khoa học trở lên; và một teacher (giáo sư) phải có từ 50 bài báo trở lên. Đây chỉ là những tiêu chuẩn rất chung chung và có thể nói là tối thiểu. cố nhiên, các tiêu chuẩn này còn tùy thuộc vào trường đại học và chuyên môn, cho nên không ai có thể đưa ra một qui định chính xáp

gs. trần văn tuấn

nguồn: trang thông tin điện tử Đại học văn hóa

___________________

[2] Garfield e. the impact factor [internet] current content 1994 20;3-7 (cited 2002 Aug 16): http://sunweb.isinet.com/isi/hot/essays/journalcitationreports/7.html.

[3] according to po. why the impact factor of journals should not be used to evaluate research. bmj 1997; 314:497-9.

[4] phelan tj. a compendium of problems for citation analysis. scientometrics 1999; 45:117-36.

[3] Garfield e. Random Thoughts on Quotation: Its Theory and Practice. scientometrics 1998; 43:69-76.

[4] bell tower j. peer review of journals in their current form, part 2. scientific communication 1998; 19:277-306

[5] cole s, et al. opportunity and consensus in peer review. Science 214:881-6, 1981

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button