Tuvibattu Xem Tử Vi,Lấy Lá Số Tử Vi Và Bình Giải Chi Tiết

Cung Mệnh là cung vị làm cầu nối quan trọng nhất trong mệnh bàn là gốc vận mệnh của cả đời, phản ánh tài năng, thành tựu, năng lực biện luận,tiềm năng phát triển của một người. Sao trong cung Tài Bạch và cung Mệnh,có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau hoặc chế buộc lẫn nhau.

Mệnh cung là cung vị điều khiển quan trọng nhất trong thập nhị cung của Mệnh bàn trong Tử vi, nó liên quan tới tất cả các cung khác trong Mệnh bàn, giống như bộ não của con người, là nơi tư duy, kế hoạch, phát hiệu thực thi lệnh, 11 cung còn lại tương đương với tứ chi bách hài, tuy phân công hợp tác, mỗi bộ phận một chức năng, nhưng đều phải do Mệnh bàn thống nhất chỉ huy và điều phối. Vị trí cát hung của các tinh diệu trong Mệnh bàn có thể dùng để phán đoán vận mệnh của một người. Nói cách khác, mệnh cách (kết cấu của vận mệnh) cuộc đời của mỗi người xấu hay tốt đều trực tiếp phản ánh tại Mệnh bàn. Dựa vào đặc tính các tinh diệu trong mệnh bàn, có thể phán đoán dung mạo, cá tính, tài năng, thành tựu trong đời của một người.

Mệnh cung là hiện, là Dương, còn Đối cùng với nó là Thiên di cụng lại là ẩn, Âm. Bởi vậy, để quan sát số mệnh, dung mạo, cá tính, tài năng của con người buộc phải tham khảo hàm ý ẩn ở trong cung Thiên di (xuất ngoại vận). Đặc biệt là khi trong Mệnh bàn không có chủ tinh, thì cát hung chủ tinh của Đối cung có thể phản ánh thất thành của vận mệnh. Ngoài ra, khi phán đoán vận mệnh, tài (tài bạch) và quan quan lộc) của một người, phải tham chiếu cung Tài bạch, Quan lộc trong tam hợp cung của Mệnh cung (tam phương), bởi vậy vận mệnh của một người và khả năng kinh tế, trang thái sự nghiệp, xuất ngoại vận đều liên quan với nhau. Thân cũng có thể dùng để phán đoán vận thế sau này của một người. Mệnh cung bản tính tiên thiên (bẩm sinh), Thân cung phụ thuộc vào hành sự hậu thiên (sau này). Tiên thiên là gốc, là tiêu chuẩn cơ bản, hậu thiên là dụng, là thân phát, hai cung buộc phải tham khảo cùng nhau. Mệnh cung không cát mà Thân cung cát, dựa vào sự nỗ lực của cá nhân sau này, đồng thời nắm bắt được vận hạn và cơ hội trong cuộc đời, có thể bù đắp những khiếm khuyết bẩm sinh mà cải thiện vận mệnh. Ngược lại, tuy mệnh tốt, nhưng Thân cung và vận hạn không tốt, chỉ hơi bất cẩn là vận mệnh chuyển thành xấu. Thân cũng không thể đơn độc thành một cung vị, nó buộc phải đồng cung với một trong sáu cung là Mệnh cung, Tài bạch cung, Quan lộc cung, Thiên di cung, Phúc đức cung hoặc Phu thê cung. Cung vị đồng cung của Thân cung nếu cát thì cát thêm cát; nếu là cung hung, thì hung thêm hung, đồng thời có các khuynh hướng sau: (1) Mệnh Thân đồng cung: Biểu thị các tinh diệu trong mệnh cung đại diện cho số mệnh bẩm sinh có tính chủ quan mạnh mẽ, cả đời không dễ chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh, tức không dễ dàng để thay đổi vận mệnh. (2) Phu thê với Thần đồng cung: Biểu thị chịu ảnh hưởng lớn của hôn nhân, bản thân có trách nhiệm với gia đình, coi trọng cuộc sống tình cảm gia đình, phu thê thường có cá tính, sở thích và hứng thú tương đồng. (3) Tài bạch với nhân đồng cung: Biểu thị dễ bị hoàn cảnh kinh tế ảnh hưởng tới vận mệnh, bản thân coi trọng giá trị đồng tiền, nóng lòng muốn kiếm tiền. (4) Quan lộc với Thần đồng cung: Biểu thị dễ bị nghề nghiệp chức vị, môi trường làm việc ảnh hưởng tới vận mệnh, bản thân coi trọng sự nghiệp. (5) Thiên di với Thần đồng cung: Biểu thị dễ bị môi trường định cư của gia đình hay xuất ngoại ảnh hưởng tới vận mệnh, bản thân thường xuyên xuất ngoại, hơn nữa thường thay đổi về nghề nghiệp hoặc nơi ở. (6) Phúc đức với Thần đồng cung: Biểu thị dễ bị tổ đức, nhân quả, cuộc sống tinh thần ảnh hưởng tới vận mệnh, bản thân khá biết hưởng thụ. Không có nghĩa biểu thị tiêu xài hoang phí | Sự phân bố của Thân cũng có quy luật: 1. Người sinh vào giờ Tý Ngọ, Thân cùng với Mệnh cung đồng cung. 2. Người sinh giờ Mão Dậu, Thân cũng nằm tại Thiên di đồng cung. 3. Người sinh giờ Dần Thân, Thân cũng nằm tại Quan lộc cung 4. Người sinh giờ Thìn Tuất, Thân cũng nằm tại Tài bạch cung. 5. Người sinh giờ Tỵ Hợi, Thân cũng nằm tại Phu thê cung. 6. Người sinh giờ Sửu Mùi, Thân cũng nằm tại Phúc đức cung. – Khi Mệnh cung có thập tứ chủ tinh Tử vi hệ và Thiên phủ hệ, cát hung thể hiện rõ, không cần xem xét tới tác dụng của Thân cung. Mệnh cung không có thập tứ chủ tinh, tức đối cung (Thiên di cung) làm chủ tinh, coi là chủ tinh Mệnh cung, phán đoán thêm chủ tinh của Thiên di cung mạnh yếu, nhưng không hoàn toàn hiển hiện với Mệnh cung, xem tác dụng mạnh yếu chỉ có thể vì thất thành của sức mạnh vốn có. Đương nhiên là chủ tinh, cát tinh của Thiên di cung nhập miếu vượng là tốt. Lúc này, vẫn cần phải xem xét tới sức ảnh hưởng của Thân cung. Khi Mệnh cung không có thập tứ chính diệu Tử Phủ, buộc phải coi trọng tác dụng của Thân cung, coi Thân cung và Thiên di cung là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Khi Mệnh cung và Thân cũng không có chính diệu, thì phải coi Thiên di cung là đối tượng trọng tâm. Cung vị của Thân cung, đa phần là nằm ngoài Mệnh cung, thì sức mạnh cát hung của cung vị mà nó vào sẽ nhỏ hơn Mệnh cung, nhưng lại mạnh hơn 10 cung khác.

READ  Người đứng sau thành công vang dội của siêu mẫu Võ Hoàng Yến