Lục Tự Đại Minh: Chân ngôn cốt lõi của vạn pháp

Lục tự đại minh chân ngôn là gì

bài huyỀn trÍ

i. chÂn ngÔn sÁng tỎ soi rỌi thẾ gian

auṃ/om maṇi padme hūm

Đó là “lục tự Đại minh chân ngôn” theo âm ngữ phạn [Sanskrit](*). có vài cách đọc bằng việt ngữ dựa vào âm thanh đó, hơi khác nhau đôi chút:

– Án ma ni pát mê hùm(**).

– Án ma ni bát di hồng.

– Án ma ni pết nạp minh hồng.

(*) các chuyên từ phật học và danh hiệu có kèm theo phạn ngữ (và đôi khi có anh ngữ) cho tiện việc tra cứu.

t

còn gọi là “lục tự thần chú” hay “lục tự Đà la ni”, nghĩa là: chân ngôn sáu chữ sáng tỏ diệu kỳ. tuy chữ chú, thần chú, there are mật chú pHổ thông, nhưng không ầy ủ ủ nGhĩa bằng chữ chân ngôn there are đà la ni [dhhani] tức là: lời chân lý củt, trong . suốt.

lục tự ại minh là chân ngôn Sáu chữ vông sáng tỏ siêu diệu, tương quan ặc biệt với ức quán thế âm [airkitesvara], vị bồ tát hiệu, và bản chất đại từ bi đại trí tuệ của ngài.

  • chân ngôn “cốt lõi” của vạn pháp
  • Theo Kinh điển ại thừa, chynh ức quán thế âm đã cung dường lên ức phật thích ca chân ngôn lục tự ại minh này, và ức ật trởt khỏi các khổ nạn trên with đường tiến đến giác ngộ.

    kinh ại thừa trag nghiêm bảo vương [mahãyãna avalokitesvara-guṇa-karandaveũha sũtra-the screen of the basket] Là kinh phật thuyết giảng về lục tự ại minh trong tương với ứ kinh này xác nhận lục tự ại minh phù hợp với tất cả các pháp phật, và vô cùng vi diệu, cứu ộộ và giải thoát chún sanh thúng. >

    trang nghiêm bảo vương kinh xem lục tự ại minh như “cốt liqute” [montone] tức latinh túy cô ọng của toàn bộ “tám vạn bốn ngàn m”. minh cor mang danh hiệu khác là “hạt lúa của ại thừa” [rice seed] Và việc trìng tụng chú nàyc cr lợi lạc ngang với vệc tụng niệm rất nhiều kinh chú khác nhac nháu. trong kinh có giải thích rõ sự trọng yếu đó (sẽ lần lượt trình bày trong các chương kế tiếp).

    ngoài kinh ại thừa trag nghiêm bảo vương, thần chú om mani padme hum còn xuất hiện trong bài quán âm linh cảm chân ngôn, nghi thức bộc chú, và trong bộ chú kabum cậa phit gi -thức thức thế mani kabum: prophecies and teachings of great compassion]. trong các nghi thức tụng niệm lễ lạc trong tự viện hay tại gia đều có ghi câu thần chú này.

    tuy lục tự này ược truyền bá rất rộng rãi trong nhân gian nhưng đa số người tụng mới chỉi biết tới như một câu chú chú chuyên trừ tà ma, giải vi diệu bí mật và đầy năng lượng của lục tự Đại minh chân ngôn, có khả năng phi thường giúp người tu đắc đạo.

    • ngữ, nghĩa & âm thanh, tác dụng
    • giải thích theo ngữ nghĩa hay tự nghĩa về sáu chữ trên như sau. chú tự đầu tiên là aum/om là một chú tự thiêng liêng của nhiều tôn giáo khác nhau ở Ấn độ. chú tự mani có nghĩa là “bảo châu” hay “hạt, chuỗi”; padme là liên hoa hay hoa sen là loài hoa thiêng liêng Đông phương; và hum là biểu tượng tinh thần giác ngộ. nghĩa trực tiếp giản lược là: om, ngọc quý trong hoa sen, hum. chân ngôn là ngôn ngữ âm thanh thiêng liêng mang tính cách của sự độ trì thiêng liêng, thường không giảng nghĩa. nhưng ặc biệt chân ngôn của quán thế âm luôn chứa ựng ý nghĩa vi diệu của cả trí tuệ lẫn từ bi hầu trợ lực cho ngưnphời hup. chẳng hạn, “ngọc quý” [mani] ở đây biểu hiện cho bồ Đề tâm [bodhicitta], “hoa sen” [padme] chỉ tâm thức trong sáng, ý nghĩa là bồ Đề ng trong.âm Càng tìm hiểu các giảng giải sâu rộng hơn về những ý nghĩa trong lục tự sẽyy sự siêu diệu bất khả tư nghì của phap môn này, vừa cứu ộ người, vừ tỏ (Đại minh).

      do sự linh thiêng của lục tự Đại minh, hơn hai ngàn năm qua, và từ rất lâu trước đó, người ta đã trì tụng những n chy. hai chữ linh thiêng là aum/om và hūṃ/hum vốn xuất hiện rất lâu không thể nghĩ bàn. Đó là những âm thanh của vũ trụ, của thiêng liêng, có thể đã hiện hữu từ thuở hồng hoang. nhưng khi các linh tự đó được trao tặng cho loài người thì đã trở thành âm thanh của tâm Đại từ bi cứu độ chúng sanh thoát khỏi mê.

      • sự hiện diện khắp nơi trên thế giới
      • khởi đi từ ấn ộ, qua kinh điển phật, và pHần nào qua sự sùng bái các ại thần chú/aum và hum/hũm/hung vốn có sẵn nền tảng tại ạn ạ ấ ấ ấ ấ theo thời gian đã lan truyền sang các quốc gia lân cận, dần dà tạo ảnh hưởng hầu hết khu vực Á châu từ thời cổ.

        khoảng ầu thế kỷ 10, ại sư a tỳ sa [tisha] từ ấn ộ ộ sang chấn hưng nền phật giáo tây tạng, tổng hợp ại, tiểu và mật thừa, tạo that ca ươ ươ ạ ạ . tập lục tự chân ngôn làm căn bản cho phật giáo tây tạng hiện hành. từ đó, tây tạng ặc biệt tôn trọng lục tự ại minh, như là thần chú hàng ầu ối với các tu sĩ hay cư sĩ trong bất hay cứ nghi th ứo nghi tu t. Họ trì tụng, lễ bái, vẽ viết, làm cờ xí, chạm trỗ trên chuông, bất cứ nơi nào, và ngay cả làm cảnh tri cây cỏ, khắc trên vách tường, đá tảng gọi là đ đ ạ ạ ạ đ đ đ ạ ná ạ ná ạ ná ạ ná ạ ná ạ ná ạ. Trê sườn ồi … nơi nào mà người tạng ịnh cư ều có hình ảnh biểu tượng của lục tự, trông như là một cõi tịnh thổc tự, với ức quán thế âm là vị.

        sự giao tiếp giữa tây tạng với trung quốc và mông cổ, đã ưa tín ngưỡng lục tự này vào các xứ láng giềng, ặc biệt v. the kừ là trong tu th tup ngay cả lão giáo trung hoa cũng áp dụng lục tự. Phật Giáo Trung Quốc Tuy Có sắc this ại thừa riêng biệt với thiền tông và tịnh ộ ộ, nhưng vẫn hấp thụ lục tự ngôn của ức quadn that that, vấp tấc. lục tự Đại minh được đưa vào các nghi thức lễ lạc, trong các quy chế tôn giáo trung hoa. sau đó, lan dần ra các xứ Á Đông.

        ngày nay, với sự giao lưu và thông tin điện tử toàn cầu, hầu như khắp nơi trên thế giới ít nhiều ều có âm thanh, hình ảnh, nĂng lượng công củc củc th. người tin tưởng và người tu tập có thể đọc tụng theo chánh âm phạn ngữ, hay đọc theo phiên âm địa phương. dưới đây là một số các cách đọc lục tự theo âm sắc địa phương.

        Sanskrit: oṃ maṇi padme hūṃ

        việt ngữ: Án ma ni bát mê hồng

        trung hoa: Ǎn má ní bā mī hōng

        tây tạng pinyin: om mani bêmê hum

        mông cổ: oëm ma ni bad mei qung

        hàn ngữ: om mani banme hum

        nhật ngữ: Ōmu mani padomē fumu

        thai: ‘phags pa: ‘om ma ni pad me hung

        jalja: um mani badme khumburyat: om maani badme khum

        hindi: om mani padme hum

        Bengali: om monipôdde hum

        ngoài ra còn nhiều cách tụng đọc khác nhau qua các ngôn ngữ mã lai, miến Điện, nepal, phi luật tân, các thổ ngữ Ấn Độ, tan</dhury kan sinhala nada, teluguy, teluguy, tan</dhury kan sinhala, teluguy ,

        ccnt cnt ccnt cnt ccnt cla di dân toàn cầu vì lý do chính trị hay tôn giáo. người tây phương trì tụng bằng nguyên bản chữ phạn oṃ maṇi padme hūṃ.

        vì sao có được sự tín ngưỡng lớn lao vượt thời gian và không gian đến thế?

        câu trả lời rất đơn giản: linh nghiệm & trí tuệ.

        trí tuệ không chỉ trong ý nghĩa sâu xa và hàm chứa đủ các pháp, mà còn trong sự cực kỳ đơn giản và hữu hiệu. Đơn giản và hữu hiệu là bản chất cứu độ của Ân trên ban cho thế gian. nhưng phải dùng tâm mà đọc tụng thì mới nắm bắt. nhờ nắm bắt và y theo trí tuệ đó, hành giả tu tập tinh tấn và nhận kết quả ngay: đó là sự linh nghiệm. chính sự linh nghiệm tích lũy qua thời gian và không gian đã phát huy sự tín ngưỡng riêng và gia tăng tầm ảnh hưởng của lục ự Đi minh

        ii. xuẤt xỨ

        a. kinh ĐẠi thỪa trang nghiÊm bẢo vƯƠng

        kinh trang nghiêm bảo vương [avalokitesvara-guṇa-karandavyũha sũtra – the display of the basket], cũng gọi (theo anh ngữ) là kinh bảo tạng diễn giải, gồm bốyn tr vynû sức uy thần hóa hiện của bồ tát quán tự tại và công đức của sáu chữ Đại minh Đà la ni Án (om) ma (ma) ni (ni) bát (pad) di (me) hồng (hum). nguyên bản tiếng phạn đã ược ấn hành ở calcutta (ấn ộ) vào năm 1873. bản dịch tây tạng, theo truyền thuyết, khoảng thếng. sau mới sai đại thần đến nepal thỉnh bản kinh tiếng phạn về nước và dịch ra tạng ngữ. bản dịch trung hoa có vào khoảng thế kỷ 11-12, do sa môn thần thiên tức tai dịch chữ phạn ra chữ hán. bản dịch việt văn do sa môn thích viên Đức thực hiện năm 1973.

        Đây là kinh thuyết về đức quán thế Âm bồ tát và lục tự Đại minh, do Đức phật thích ca cho biết rõ về xuất xứ của min

        ục

        • xuất xứ của Đại minh chân ngôn
        • trong kinh ghi chep: có một lần, ức phật thích ca mâu ni đang an trụi tựi viện cấp cô ộc [anathapindika], gần thành xá vệ [shravasti] quán tự tại và lục tự chân ngôn với tập hội.

          khi đó bồ tát trừ cái chướng [sarvanivaranaviskambhim] thỉnh cầu đức phật ban cho giáo lý lục tự chân ngôn này. sau đó đức phật thuyết về đức quán tự tại đã ban cho thần chú.

          tương truyền vô lượng kiếp về trước có một ngàn thái tử phát tâm bồ Đề nguyện thành phật. một vị nguyện thành phật thích ca mà ta đã biết; nhưng quán tự tại thì nguyện sẽ không đạt thành chánh giác khi mà tất cả ngàn thái tử chưa thành. với tâm đại bi vô biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sanh ra khỏi khổ sinh tử luân hồi trong lục đạo. TRướC MườI PHươNG CHư PHậT, NGÀI PHÁT NGUYệN: “NGUYệN CHO WITH CứU GIUP ượC TấT Cả HữU TìNH, Và NếU CÓ KHI Nào with MỏT NNONG Công VIệC LớN LAO Này NGUY N. p>

          Đầu tiên, ngài xuống cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. từ ấy ngài tình cờ nhìn xuống và trông thấy: hỡi ơi, mặc dù ngài đã cứu vô số chúng sanh thoác khỏi ịa ngục, vo vô sakh īcò v Điều này làm cho ngài đau buồn vô tận, trong một lúc ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ ại mà ngài đã phát, và.li then the ngài

          trong cơn tuyệt vọng, ngài kêu cứu tất cả chư phật. những vị này từ mười phương thế giới đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. với thần lực nhiệm mầu, chư pHật làm cho ngài hiện toàn thân trởii, và từ ấy quan tự tại có mười một cai ầu, một ngàn canh tay, trên mỗi lòng tay cón một một. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân thực. trong hình thức này, ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp tất cả chúng sanh. tâm ại bi của ngài khi ấy còn mãnh liệt hơn nữa, và ngài lại phát lời nguyện này trước chư phật: “with nguyện không thành chánh cả chánh gic

          theo kinh điển ại thừa, chynh quán tự tại bồ tát đã trao ức phật câu thần chú, và ức phật trở lại giao phó cho ngài côngvers tác cao qui vào lúc ấy, chư thiên tung hoa xuống ca ngợi, quả đất chấn động, và không trung vang lên âm thanh om mani padme hum.

          • sự vi diệu của lục tự Đại minh
          • sựtrong kinh trang nghiêm bảo vương, quyển ba, đức phật dạy trừ cái chướng bồ tát về sự vi diệu của lục tự Đại sau:</ minh sau:

            “Sáu chữi ại minh đà ra or này khó ược gặp gỡ, nếu Có người nào ược Sáu chữi ại minh vương đy, thì người đó Tham, sân, yes, ộc không thể nhiễm. nếu đeo mang trì giữ nơi thân, người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. chơn ngôn này vô lượng tương ưng, với các như lai mà còn khó biết, huống gì bồ tát làm thế nào biết được. Đây là chỗ bổn tâm vi diệu của quán tự tại bồ tát.

            “sáu chữ Đại minh Đà ra ni đó là bổn tâm vi diệu của quán tự tại Đại bồ tát. nếu biết vi diệu bổn tâm ấy tức biết giải thoát. Sáu chữi ại minh đà ra or này vông tương ưng như lai mà còn khó biết huống gì là bồ tát làm thế nào mà biết ược chỗ bổn tâm vi diệu của ngài tựi ạ? tôi đi trải qua các quốc độ khác cũng không biết sáu chữ Đại minh Đà ra ni này. NếU CO NGườI THườNG thọ trì sáu chữi ại minh đà ra or thì khi trì tụng có chyn mươi chyn hằng hà sa số chư như lai nhóm hội, có vô số bồ tát nhiều như vi trầ nhó hộic vi trầ nhó hội có vô số bồ tát nhiều như vi trầ nhó hội có có mươi hai cõi trời cũng đều nhóm hội. (…) trong lỗ chân lông ngài quán tự tại Đại bồ tát có trăm ức như lai an trụ và khen ngợi người trì tụng ấy: ¡lành thay! lanh thay! thiện nam tử! ngươi hãy được như Ý ma ni bảo, bảy đời dòng họ của người đều sẽ đều được giải thoát.”

            sau đó đức phật thích ca mâu ni ban giáo lý: “Đây là thần chú lợi lạc nhất. ngay cả ta cũng đã phát nguyện này trước tất cả một triệu đức phật và sau đó nhận lãnh giáo lý này từ đức phừ ”. a di

            b. mẬt tẠng bẢo ĐiỂn mani kambum:thuyết & hành về thiên thủ thiên nhãn quán thế Âm

            maṇi kambum: thuyết & hành về thiên thủ thiên nhãn quán thế Âm [tạng ngữ: ma ṇi bka’ ‘bum] [anh ngữ: mani kabum: prophecies and teachings of great compassion] là một đại bảo tảa ẫt ảm lung canh , bao gồm từ kinh giảng, nghi thức, và huyền sử. xuất hiện vào thế kỷ 7, bảo tạng này được xem như một kho tàng ẩn mật. Đến khoảng giữa thế kỷ 12 mới được khám phá các lợi lạc và truyền bá đến giờ.

            nội dung của bảo Điển tập trung vào bồ tát quán thế Âm, các huyền thoại và các pháp môn do ngài truyền dạy. Đức quán thế Âm đề cập ở đây dưới nhiều dạng: nam thần, thập nhất diện thiên thủ thiên nhãn. bài chân ngôn ngài truyền lại chính là lục tự Đại minh, do đức phật a di Đà ủy thác.

            • sự xuất hiện của bồ tát liên hoa sanh
            • câu chuyện chính về quán thế Âm trong bảo Điển diễn ra trong cõi tịnh Độ liên hoa [padmawati], do một vị chuyển luân thánh vương tên cho trì zang. vua muốn có một hoàng nam, và thực hiện nhiều lễ cúng dường tam bảo dâng hoa sen để cầu xin.

              một lần, có một hoa sen khổng lồ sắp nở trong hồ. vua cùng đoàn quần thần mang lễ vật đến hồ. họ chứng kiến ​​cảnh đóa sen khổng lồ đang nở. Giữa NHữNG Cánh Hoa Là Một Thiếu niên Khoảng Mười Sáu Tuổi, Thân Người Trắng Sáng rực ange linh quang với gần trọn ủ ủ các hảo tướng của một vị pHật. ngài kêu lên: “ta cảm thấy thương xót tất cả chúng sanh đang chịu quá nhiều đau khổ!”

              vua và quần thần kính cẩn cúng dường, lễ lạy, và thỉnh mời ngài về cung điện. do sự đản sinh trong hoa sen kỳ diệu này, ngài được tặng danh hiệu “liên hoa sanh” [padmasambhava], tức Đản sanh trong hoa sen, hay tinh túy của hoa sen. vua tham khảo ý kiến ​​đạo sư của người là đức phật a di Đà [amitabha] về chuyện lạ này. Đức phật cho biết, thiếu niên xuất chúng này mang đầy đủ phật tánh, nhất là tâm Đại bồ Đề [maha-bodhicitta] của phật.

              • sứ mạng quán thế Âm và sự hiển lộ của lục phật trong sáu cõi
              • vào ngày trăng tròn, vua thực hiện lễ cúng dường tam bảo và đức quán thế Âm thật trọng thể. Đức quán thế Âm phát khởi tâm đại bi, và từ đôi mắt ngài những giọt lệ tuôn rơi. ngài chí tâm cúng dường, lễ lạy và cầu xin thập phương chư phật chỉ dạy cho ngài phương thức tạo lợi lạc cho toàn chúng sanh. chư phật đồng thanh đáp: “nếu muốn làm lợi lạc toàn chúng sanh, Ông phải được thúc đẩy bởi tâm đại từ đại bi. Đừng sao nhãng trong việc này. Đừng thối chuyển.”

                ngài lại hỏi: “làm thế nào con có thể phát triển tâm đại từ đại bi?”

                Đức phật a di Đà hiện thân để chỉ dạy cho đức quán thế Âm pháp môn tu hành, và ban quán đảnh cho ngài để hoàn thành sứ mạng. quan thế âm phát ại nguyện: “từ mỗi lỗ chân lông của tôi, cầu mong tôi hiển lộ chư pHật và bồ tát pHù hợp với mọi nhu cầu của tất cả chung sanh. với những hiển lộ này, cầu mong tôi giải thoát tất cả chúng sanh không loại trừ ai. nếu tôi chấp ngã, cầu xin đầu tôi vỡ thành từng mảnh.”

                Đức phật a di Đà tán thán ngài: “lành thay! chư phật ba đời mười phương và ta cũng từng triển khai tánh giác ngộ như Ông; he đã phát nguyện như vậy; và đã đắc quả giác ngộ. ta sẽ hộ trì cho Ông.” Đức phật a di Đà ban phước cho đại nguyện của ngài và gia hộ cho ngài.

                sau đó đức quán thế Âm phóng ra sáu nguồn ánh sáng từ thân ngài tới sáu cõi chúng sanh. mỗi ánh sáng hiển lộ như một đức phật. nhờ đó vô số chúng sanh đã được giải thoát.

                • thiên thủ thiên nhãn quán thế Âm và lục tự chân n gon
                • sau một thời gian hoằng hóa, đức quán thế Âm nghĩ ngài đã làm vơi bớt một số chúng sanh đau khổ đáng kể. từ núi tu di, ngài quán chiếu bằng mắt trí tuệ, và ngài thất vọng khi nhận ra rằng số lượng chúng sanh khổ não không suy giảm. ngài phóng hào quang ba lần tới sáu cõi hầu giải thoát tất cả chúng sanh. khi kiểm soát một lần nữa, ngài lại thất vọng. quá tuyệt vọng, ngài nghĩ: “Đúng như như lai đã dạy: không gian vô tận; chúng sanh cung bao la vô tận như vậy. ta đã giải thoát quá nhiều chúng sanh; tuy thế số lượng đó không hề suy giảm. luân sanh [samsara] quả thật vô cùng tận. ta phải tự giải thoát chính minh.”

                  với tư tưởng thối thất này, ngài làm gãy đổ giới nguyện bồ tát. Đầu ngài vỡ ra thành một trăm mảnh. lòng tràn trề ân hận, ngài kêu cầu ức phật a di đà và tất cả chư phật: “con đã không hoàn thành mục đích của và của tấúp san cẩ, con.

                  Đức phật a di Đà xuất hiện, thâu thập một trăm mảnh sọ vỡ và biến chúng thành mười một cái đầu. ngài ban phước cho mười ầu có vẻ mặt an bình và một ầu có vẻ phẫn nộ ể ể chế ngự những không thể điều phƻơ an tiph ằng

                  sau đó đức phật a di Đà giảng dạy: “sanh tử không có lúc khởi đầu. sanh tử cũng không có lúc chấm dứt. Ông phải làm lợi lạc chúng sanh cho tới khi sanh tử chấm dứt.”

                  Đức phật a di Đà truyền thêm cho ngài: “nếu Ông muốn làm vơi nỗi khổ của sáu cõi, Ông phải truyền bá lục tự chân mani ngàm. thần chú này sẽ làm ngưng dứt luân hồi và phiền não của chúng sanh trong sáu cõi đầu thai. mỗi một âm sẽ triệt tiêu nhân và duyên tái sanh ở một trong sáu cõi tương ứng. ‘om’ sẽ triệt tiêu nhân duyên sanh vào cõi trời. ‘ma’ sẽ triệt tiêu duyên sanh vào cõi bán thần. ‘ni’ sẽ triệt tiêu duyên sanh vào cõi người. ‘pad’ sẽ triệt tiêu nghiệp sanh vào cõi súc sinh. ‘I’ sẽ triệt tiêu nghiệp sanh vào cõi ngạ quỷ. ‘hum’ sẽ triệt tiêu nghiệp sanh trong cõi địa ngục. Ông phải cam kết, bảo vệ, trì tụng và thâm nhập thần chú này. thần chú sẽ làm sáu cõi trống không.”

                  Đứcphật a di Đà đã hiển thị sáu âm của thần chú “om mani padme hum” dưới hình thức ánh sáng từ phổ Đà sơn [potala] tới nhân. ngài truyền dạy đức quán thế Âm đi tới đó để giải thoát tất cả chúng sanh. Ể bao trước sự xuất hiện của ức quán thế âm, toàn thể thế giới ngập ầy những dấu hiệu kỳ diệu và hào quang rạng ngời vượt xa ang sáng

                  c. lỤc tỰ ĐẠi minh chÍnh lÀ bỒ tÁt quÁn thẾ Âm

                  các câu chú thường mang tên các vị phật, bồ tát, hoặc thần thánh. Ơn giản như câu niệm hồng danh các ngài: nam mô a di đà phật, nam mô bổn sư thích ca mâu or pHật, nam mô đó. chẳng hạn, om mani padme hum chính là hồng danh của đức quán thế Âm và đức tánh của ngài.

                  từ quan điểm chân ngã tuyệt ối, phật và bồ tát vốn không có tên, nhưng trong pHạm trù ý nghĩa tương ối, mỗi vị có (các) tên gọi riêng Tù Vào cứng ối. những tên này là biểu tượng của tâm từ bi, thanh tịnh, hay năng lượng cùng các đại nguyện của các ngài làm lợi ích cho chún sanh.

                  trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thánh; cả hai trở thành một thực tại duy nhất, there is là nhất thể. như thế, một người có thể tập trung niệm chú mà không cần thiết phải hình dung quán tưởng đến vị thánh, mà sự niỺm ệu hi cóu. tuy nhiên, nếu ở trình độ có khả năng quán tưởng thì lợi lạc gia tăng. bằng cách niệm danh hiệu của các ngài, sự thanh tịnh cứu độ này được truyền đến ta. bằng cách niệm và quán tưởng đức hạnh của vị thánh, người quán tưởng sẽ nhận được phẩm chất thiêng liêng thanh tịn

                  • niệm lục tự Đại minh là trì danh và hạnh quán thế Âm bồ tát
                  • lục tự Đại minh chân ngôn om mani padme hum là một trong những câu thần chú tiếng phạn linh nghiệm và phổ biến nhất. thần chú thường mang cứu cánh kêu cầu sự độ trì đức quán thế Âm bồ tát. tuy nhiên, thần chú cũng chính là hồng danh và đức độ của ngài quán thế Âm.

                    mỗi âm trong sáu âm của lục tự chân ngôn có thể được giải thích phù hợp với bản chất và hạnh nguyện của ngài. cách dịch hán việt thường dùng của thần chú là: om: quy mạng; mani: ngọc nhưý; padmé: hoa sen; hum: tự ngã thành tựu. cách dịch này nghiêng về phần hành trì, có nghĩa quy mạng cho tam bảo và tu tập để tự thành tựu đạt ngọc quý trong hoa sen. một cách dịch khác tách hai chữ linh tự đầu om và cuối hum, sẽ là: om – ngọc quý trong hoa sen – hum [om, to the jewel in the lotus, hum]. chữ “ngọc quý trong hoa sen” đây chính là hồng danh và đại nguyện-đại bi-đại tuệ của bồ tát quán tự tại hay quán thế Âm. như trong biểu tượng của Truyền thuyết, ngài là vị bồ tát xuất hiện trong hoa sen, và ngài tinh khôi, toàn hảo, sáng rỡ, tuyệt vời, toànnng như viên bảo chú đ đ đ đ đ đ đ đ đ khổ não. “Ngọc quý” Chính là biểu hiện cho bồ ề ề tâm giác ngộ, “hoa sen” chỉ cai tâm của with người chứa ựng hạt giống bồ ề ều tượng cho tâm giác ng ng nộ nở nở nở ồ ồ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ tat. Đây chính là tâm đại từ đại bi vô lượng, không ngằn mé, muốn đạt niết bàn chỉ vì lợi ích của chúng sanh. một cách khác, thần chú này là chân tâm của đức quán thế Âm, không hề tách rời với nguồn năng lượng từ bi trí tuệ của ngài.</

                    • sự cứu độ của bồ tát
                    • thần chú thường được tôn kính như các linh tự, chữ thiêng liêng, do đó ít khi được giải thích cặn kẽ. tuy nhiên, đức quán thế Âm là vị bồ tát đại từ bi đại trí tuệ, không có một linh tự nào ngài ban cho lại không chứa đệo ch vu. người tu tùy trình độ mà thâm nhập và tiếp nhận các ngọc vô giá đó. nếu không hiểu cặn kẽ cũng không sao, dùng cái tâm tha thiết và tập trung cũng có thể cảm ứng được tâm từ bi của ngài.

                      sự cứu độ của bồ tát vốn không phân biệt hạng chúng sanh vì tính chất bình đẳng tánh trí của các ngài. phân biệt hay không là do chính nơi chúng sanh đó. nói rõ hơn, do nghiệp lực và sự tu tập chuyển hóa tự thân của cá nhân đó.

                      sự cứu độ có thể nhận được dưới nhiều dạng thức. dạng thường thấy là do ngõ âm thanh. thần chú có những âm thanh thiêng liêng đặc biệt và những tác dụng năng lượng bí ẩn. Kim Cang Thừa Trình Bày Biểu ồ Về Hiệu ứng và tương quan của các âm thanh này qua với các cõi và các trình tự t your tập tiến Hóa (sẽc trình bày trong phần ý ý một thí dụ, sáu âm tiết [syllable] của thần chú này được xem là tương ưng với sáu cõi tái sanh của dục giới. như vậy, người niệm chú có thể thoát khỏi sáu nẻo luân sanh, there is tam đồ lục đạo [three courses and six kingdoms]. lục đạo là sáu đường tái sanh dưới các dạng chúng sanh do luân hồi.

                      chân ngôn hay thần chú là biểu hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Đó là âm thanh chân thật của khoảng trống không. theo thiền học, nếu đi vào nguồn các khái niệm về chân lý tuyệt đối và trạng thái chân như rỗng không, không có hiện hữu nàothm. Âm thanh và thần chú, như tất cả những dạng biểu thị khác, đều ở vị thế của cõi tương đối xuất hiện từng tuy. trong cảnh tương đối, mặc dù âm thanh tự chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định, đặt tên, vàng ho trongt.

                      có vô số cách giải thích một thần chú, tùy theo ước nguyện, trình tự tu học và mục tiêu cứu cánh của hành giả. cách giải thích ơn giản, dễ ghi nhận, mà không thiếu phần hiệu quả, là thần chú lục tự này chỉ là têa của bồ tán âc thết /p>

                      – om tượng trưng choc thân các vịt trong chân không, các thần chú ều bắt ầu từ âm này;- maniCo nghĩa là châu báu ý nghĩa tâm linh vi diệu, bảo thá trong Thá thá trong thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thyg thhy tuệ bát nhã”;

                      – Padme Chỉ Chỉ Hoa Sen, Tượng Trưng Cho “Chân Tâm” Thanh Tịnh, Thuần Khiết Và từ Bi;- Hum Tượng Trưng Cho tthc Thức Giác ngộ của tất cả các vịtt, vẫn thườnnn cầi cầi cầ wow.

                      khi niệm chú om mani padme hum, thật ra đang liên tục lặp lại tên quán thế Âm; đồng thời nhắc đến các hạnh độ của ngài. Đó là thanh khiết, từ bi, và trí tuệ cao quý như bảo châu của quán thế Âm trong nguồn ánh sáng của tất cả các vị phật và bồ tát. cách nhìn này toàn bộ hơn, phát huy được tâm thức thanh tịnh, từ bi của hành giả, và đưa đến sự tỉnh thức trí tuợi.</ thac git.

                      iii. Ý nghĨa & diỆu dỤng cỦa chÂn ngÔn

                      lục tự chân ngôn là hiển lộ của ngôn ngữ và năng lực trí tuệ của tất cả chư phật, qua quán thế Âm bồ tát. Đó là một phương tiện để bảo vệ tâm khỏi những niệm tưởng mê lầm, chặt đứt vô minh và khai mở trí tuệ. chân ngôn vừa giúp gia tăng vô lượng sự ban phước, cứu giúp và làm dịu bớt khổ đau; lại khiến ta có thể đạt được an bình, qua sự khai tâm mở trí của tự thân.

                      mỗi một chú tự (hay chủng tử Trong thần chú) ều Có Liên hệ ến các vị pHật và bồ tát tương ưng, Các Cõi, Các Phap Môn, Và nĂng lượng Hóa Gi Ác V ức C ườc C thiền định tạo lợi ích trong đời này, và sẽ tiếp tục trong nhiều đời tương lai.

                      lúc chết, sẽ không sanh vào ba ọa xứ mà vãng sanh về tịnh ộ ộ tây phương hay trong chính cõi tịnh ộ ộ đt. p>

                      a. Ý nghĨa linh tỰ ‘om’

                      trong lục tự có hai linh tự, tức là âm tiết thiêng liêng tối thượng. Đó là “om” và “hum”. hai linh tự này xuất hiện khắp nơi, trong nhiều tôn giáo tín ngưỡng, từ phụng tự, tu tập, đến lịch sử, truyền thuyết.

                      như trên có đề cập, aum/om tượng trưng cho thân các vị phật trong chân không, các thần chú đều bắt đầu từ âm này; hum tượng trưng cho tâm thức giác ngộ của tất cả các vị phật, vẫn thường là âm cuối trong các thần chú. khác với hum, om có ​​thể đứng một mình vẫn đầy uy lực. dưới đây là lược khảo về năng lượng không thể nghĩ bàn của linh tự “om”.

                      om là một phần của biểu tượng ược tìm thấy trong bản thảo thời cổ ại và trung cổ, trong các ngôi chùa, you viện và các ịa điểm tâm linh Trong ấn ộ giá, phật. Các Biểu Tượng Có ý NGHĩA Tinh Thần Trong Tất Cả Phap ấn ộn, Nhưng ý nghĩa của om thay ổi Theo Các Trường Phai Kháau Trong Cùng Một ạO Và Trong Các ạO Giá -Khaá.

                      trong ấn giáo nói chung, om là một trong những biểu tượng tâm linh quan trọng nhất, ề cập ến atman thần linh, tinh thần tối cao, nguyên tắc của vũ trụ, tri thức). linh tự này thường được tìm thấy ở đầu và cuối chương trong kinh vệ Đà, Áo nghĩa thư, và các kinh sách của Ấn giáo. tóm tắt, om là tổng thể của âm thanh, sự sống, và tâm thức. om thường được xem như là âm thanh của vũ trụ, âm thanh của thần bí, hay sự xác nhận tính chất linh thiêng bất kỳ ở đâu hay trong sinh n hoỳ. Đy là chú tự thiêng liêng ược ọc riêng trước, và khi ọc cc kinh Sách linh điển, trong lễ cầu nguyện cung dường và các buổi tụng kinh, trong Cácy ngyện ứ, t ậ, t ậ ậ ạ ạ ạ động thiền định và tâm linh.

                      Âm thanh om có ​​​​tầm ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh và ngay cả sinh hoạt dân gian theo Ấn giáo, và cả hồi giáo, phậot. từ kinh điển, ến thi ca, âm nhạc, NGHệ thuật, văn Hóa… đó là âm thanh của cõi vôi biên, của hư không, là tri kiến ​​vô giới hạn, là tinh hoa của của hơa cả những gì hiện hữu, và tất cả những ai được đắc chân cứu cánh giải thoát.

                      om là kim chỉ nam cho tín ngưỡng và văn hóa vệ Đà, mang tính cách thiêng liêng trí tuệ, lẫn thơ mộng trử tình. tất cả những gì có âm thanh, trong thế giới vệ Đà, đều có màu sắc chữ om. ngay các nốt thanh nhạc đều là các âm sắc của om (oum, aum, ovā ovā ovā um, vân vân) từ đó mà tạo tác.

                      linh tự om đưa đến nhiều ý tưởng trừu tượng trong Áo nghĩa thư sơ khai. Các Kinh Văn Này Có Chủ Thuyết Dùng om NHư “Công cụ Thiền ịnh”, Giải NGHĩA Là Khi Thiền Thì Linh Tự Này Sẽm Trong Tâm Khảm Của Hành Git của sự sống, thượng Đế, linh hồn, và tri thức tự thân.”

                      trong phậtgiáo, Linh tự om xuất hiện trong các trrường phai sanh sau ẻ muộn, như kim Cang thừa phật giáo tây tạng, vốn chịu ảnh hưởng của ấn giáo [Hinduism] trong kim cang thừa trung hoa, om được viết theo lối âm nho, là chữ pinyin “ǎn” hay “wēng”. việt nam dịch âm thành chữ “án” hay thường đọc theo chữ phạn là “om.”

                      trong kim cang thừa tây tạng, om thường được trì tụng với các chân ngôn hay thần chú. chân ngôn thông dụng nhất chính là “om mani padme hum”, lục tự Đại minh của vị bồ tát từ bi quán thế Âm. chân ngôn này thường đi theo cùng dạng quan Âm bốn tay [shadakshari], hay thiên thủ thiên nhãn quán tự tại [avalokiteśvara sahasra-bhūja-locana]. trong mật tông cũng có pháp trì tụng theo từng âm tiết hay chủng tử [bija mantra], và khi đó “aum” được xem như là thánh thân thiêng liêng của giápôt

                      trong dạng thức này, theo đức Đạt lai lạt ma 14 thuyết giảng, chữ aum do ba chữ thanh tịnh kết thành “a, u, m”. ba chữ này tiêu biểu cho thân khẩu ý bất tịnh của hành giả trong đời sống thường chưa giác ngộ; chúng cũng tượng trưng cho thân khẩu ý tuyệt đối thanh tịnh của vị phật.”

                      b. Ý nghĨa cÁc chÚ tỰ

                      chân ngôn “om mani padme hum”là hiện thân tất cả năng lực từ bi, trí tuệ và công hạnh của đức quán thế Âm tôn quý, hiện thân ả ất Đối với một số hành giả tu tập, cảm thụ được âm thanh và ý nghĩa của thần chú này, thật không thể nghĩ bàn. bồ tát đã phát nguyện và tích tập vô lượng công đức, trí tuệ và phương tiện thiện xảo để cứu giúp toàn chúng sanh. Thế nên, bất cứ ai có niềm tin chân thành và sâu xa ở ngài và nỗ lực trong việc thực hành phap môn, sẽ phát ra năng lượng there are âm thanh (của tâm) và ức quan ứ p>

                      pháp môn này có ý nghĩa trong chú tự (hay chủng tử) không, hay chỉ là âm thanh thiêng liêng? nhiều vị tu tập đắc pháp đã tìm thấy những bài học từ mỗi chú tự này và truyền thụ lại cho hậu sanh. DướI đây là b sự liên hệ đến các vị phật và cõi tịnh Độ của ngài.

                      * chú tự om”:

                      – om có ​​​​màu trắng, biểu thị cho thiên giới;

                      – om liên hệ đến bảo sanh phật [ratnasambhava];

                      – om đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời.

                      – om thanh tịnh hóa bản thân;

                      – om lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị phật;

                      – om liên hệ đến bố thí ba la mật (there is hạnh độ);

                      – om liên hệ đến trí tuệ thanh thản, an bình.

                      *chú tự “ma”:

                      – ma có màu xanh, biểu thị cho tu la đạo;

                      – ma liên hệ đến bất không thành tựu phật [amaghasiddi];

                      – ma đóng cánh cửa cõi thần, to your la;

                      – ma thanh tịnh hóa lời nói;

                      – ma lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị phật;

                      – ma liên hệ đến trì giới ba la mật;

                      – ma liên hệ đến trí tuệ hoạt động.

                      *chú tự “ni”:

                      – ni có màu vàng, biểu thị cho nhân gian giới;

                      – ni liên hệ đến kim cương trì [vajradhara] và phổ hiền bồ tát;

                      -ni, đóng cánh cửa cõi người;

                      – ni thanh tịnh hóa tâm thức;

                      – ni lời cầu nguyện hướng về tâm thức các vị phật;

                      – ni liên hệ đến nhẫn nhục ba la mật;

                      – ni liên hệ đến trí tuệ tự tái sanh.

                      *chú tự “pad”:

                      – pad có màu xanh lục, biểu thị cho súc sanh đạo;

                      – pad liên hệ đến tỳ lô xá na phật [vairocana];

                      – pad, đóng cánh cửa cõi súc sanh;

                      – pad thanh tịnh hóa những cảm xúc mâu thuẫn;

                      – pad lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của các vị phật;

                      – pad liên hệ đến tinh tấn ba la mật;

                      – pad liên hệ đến trí tuệ pháp giới.

                      *chú tự “I”:

                      – me có màu hồng, biểu thị cho ngạ quỷ đạo;

                      – me liên hệ đến a di Đà phật [amitabha];

                      – me đóng cánh cửa cõi ngạ quỷ;

                      – me thanh tịnh hóa điều kiện ẩn tàng;

                      – me lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị phật;

                      – me liên hệ đến thiền Định ba la mật;

                      – me liên hệ đến trí tuệ phân biệt.

                      * chú tự “hum”:

                      – hum có màu đen huyền, biểu thị cho Địa ngục đạo;

                      – hum, liên hệ đến a súc bệ phật [akshobya];

                      – hum đóng cánh cửa cõi địa ngục.

                      – hum thanh tịnh hóa tấm màn che phủ trí tuệ.

                      – hum lời cầu nguyện sự thanh tịnh thân, khẩu, ý, phẩm hạnh, và năng lượng phật.

                      – hum liên hệ đến trí tuệ ba la mật;

                      – hum liên hệ đến trí tuệ như gương.

                      như vậy, việc trì tụng chân ngôn không chỉi ích nhỏ hẹp cho bản thn hành giả, mà tất cả nĂng lượng và công hạnh vô va Háng Cyng cyng min min, từ từ từ chúng sanh thoát khỏi đau khổ, sợ hãi. hành giả nên trì tụng chân ngôn này càng lâu càng tốt trong các thời khóa tu.

                      c. cÔng ĐỨc diỆu dỤng

                      tìm hiểu ý nghĩa của chân ngôn lục tự Đại minh đồng lúc cho thấy các công đức và ích lợi thù thắng hàm chứa trong từng ch. các công đức này vi diệu phi thường không thể nghĩ bàn. trong kinh trang nghiêm bảo vương, có nhắc đến lời phật dạy rằng, ngài đã dùng thần lực có thể đếm hết được số giọt nước mưa trong mười hai năm, nhưng công đức lợi ích của người trì niệm câu chân ngôn lục tự thì đức phật không thể đếm hết được.

                      các công đức bao gồm từ việc độ trì cứu khổ ban vui, cho đến việc tu tập thành tựu, và khi mãn phần tránh khỏi sa vào các đoưc Đối với bệnh khổ, hình phạt, những sợ hãi chết bất đắc kỳ tử nếu trì niệm lục tự chân ngôn đều được tiêu trừ, thọ mạng tăng trưởng, phúc đức gia tăng, của cải sung mãn, khiến lúc lâm chung không đọa ác đạo, được sinh cõi nhân thiên, được gặp phật pháp và về cõi tịnh Độ. công đức của lục tự chân ngôn thật vô lượng và ngay cả chư phật trong ba thời cũng không thể mô tả hết.

                      “ta ược dạy rằng có thể tính ếm ược vông cat sông hằng và những giọt nước của ại dương nhưng công ức của việc trì tụng lục tực tựn ng thông.

                      “lục tự chân ngôn là hiển lộ của ngôn ngữ và năng lực trí tuệ của tất cả chư phật. nó tịnh hóa tri giác bất tịnh của ta về âm thanh. nó cũng là một phương tiện để bảo vệ tâm ta khỏi những niệm tưởng mê lầm. nó chặt đứt vô minh và khai mở trí tuệ của ta. nó làm tăng trưởng vô lượng sự ban phước và khiến ta có thể đạt được an bình. thần chú này có thể cứu giúp và làm nguôi dịu hàng trăm và hàng ngàn khổ đau và khốn khó của chúng sanh.”

                      “sáu chữ Đại minh Đà la ni đó là bản tâm vi diệu của quán tự tại bồ tát. nếu biết bản tâm vi diệu ấy, tức là biết giải thoát! lục tự thần chú đã giúp đức quán tự tại được chứng đắc.”

                      trong kinh ại thừa trang nghiêm bảo vương đã ghi nhận năng lực cứu ộ vi diệu và công ức hóa ộộ chúng sand sáu nẻo luân hồi củqua ứ; đồng thời khẳng định mọi công đức thần thông mà ngài có được đều nhờ thần chú lục tự Đại minh om mani padme hum.

                      Đức phật lại gia bị các chỉ dạy của ngài về các trường hợp cá biệt có thể nhận lợi lạc qua việc trì tụngôn, sâsâpôn

                      “NếU có thiện nam tín nữ nào y phap, niệm Sáu chữi ại minh đà la nà này thì người đó sẽ ược biện tài vôi, ược Trí Tuệ Thanh tịnh, ược ạc ại từ bi. người đó ngày ngày được viên mãn công đức của sáu pháp ba la mật. người đó được trời chuyển luân thánh vương quán đỉnh. Khi người ấy nói, hơi từ trong miệng phat ra chạm ến thân ai thì người ược chạm ấy phát khởi tâm lành xa lìa tâm sân ộc, sẽ ược ịa vịt ốt ủt ủt ủt ủt ủt ủt ủt ủt ủt ủt ủt ủt

                      “nếu người đeo giữ sáu chữ này và thọ trì, lấy tay chạm đến thân người khác thì người được rờ chạm v.Ằy nếu kẻ nam, người nữ, contra trai, con gái cho đến dị loại hữu tình khác thấy được người đeo và thọ trì ấy thì tấất cất c. người như thế vĩnh viễn không còn chịu khổ: sanh lão bệnh tử, ái biệt ly, cầu bất ắc… mà ược sự niệm tịng ểnghà ghàng ư nay như thật mà nói lên sáu chữ Đại minh Đà la ni vậy!”

                      Đức phật lại bảo rằng: “nếu có người biên chép sáu chữ Đại minh Đà la ni này thì đồng với chép 84,000 pháp tạng. NếU CO NGườI LấY Vàng Báu Cõi Trời TạO Hình tượng như lai ứng chính ẳng giác, số như vi trần, làm như vậy rồi, nói một ngày khánh lễ tán biên chép một chữ trong sáu chữ Đại minh Đà la ni ấy, đã khéo an trụ nơi Đạo giải thoát không thể nghĩ bàn.”

                      kinh mật tạng bảo Điển lại cho rằng: “chẳng phải dùng miệng xướng lên minh chú này thì mới có công đức. nếu kẻ nào đeo chú này trên thân, hoặc cột vào tay, hoặc chôn trong da thịt thì cũng tạo được nhân chủng giải thoát khỏi sinh t.”

                      iv. cÁch trÌ niỆm tu tẬp

                      a. mỘt cỨu cÁnh, hai truyỀn thuyẾt, ba nguyÊn lÝ ​​​​tu tẬp

                      bồ tát thế thân [vasubandhu] (316-396), tổ sư thứ 21 thiền tông ấn ộ, vào thế kỷ 4 dương lịch, your thành tựu tiểu thừa nhưng sau chuyển sag ại thừ soạn nhiều kinh luận Đại thừa, duy thức, câu xá nổi tiếng quán thông.

                      ngài là một trí giả, luận sư xuất sắc của thuyết nhất thiết hữu bộ [sarvāstivādin] và duy thức tông [vijñānavādin]. ngài là em của vô trước [asaṅga], người sáng lập phái duy thức. vô trước là người đã khuyến dụ thế thân theo Đại thừa.

                      sinh trưởng trong một gia đình bà la môn, ngài thụ giới cụ túc sớm. lúc đầu, sư học giáo lý phật giáo nguyên thủy, tu học nhiều nơi tại thiên trước (Ấn độ cổ), và soạn bộ a tì ĐmỺma [c]. sau đó, sư đi du phương và danh tiếng của sư là một nhà biện luận xuất chúng vang dội. KHI GặP LạI Vô Trước Và Nghe Giảng Giải Giáo Lý ại Thừa, Sư Bỗng nhiên tỉnh ngộ, bắt ầu say mê nghiên cứu ại thừa và viết luận về kinh điể hệ này. Đặc biệt là kinh bát nhã ba la mật Đa. sư biên soạn nhiều bài luận, trong đó sư hệ thống hóa tư tưởng “duy thức” được lập nên bởi vô trước.

                      sưc triều đình mời ến giảng dạy và trở thành vịc sư, khuyến khích vương triều làm những việc thiện như xy dựng bệnh viện, trường học. sau đó một thời gian, sư cũng hoằng hóa tại viện na lan Đà. sư dạy kinh pháp phối hợp Đại tiểu thừa, nhưng vẫn thường hay du phương và tùy cơ giáo hóa theo hạnh khất sĩ của đức ph>

                      ược vinh danh là một vị bồ tát quán thông và dung hợp ược cả hai phap phap đích của chúng!”

                      câu chuyện thứ nhì, Hoàn toàn ngược lại với cuộc ời vinh quang của vị tổ sư ại tri tuệ, là tryền thuyết về bà lão mù chữm niệm lục tự ỗ ỗ ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế ế. ” khi nghe niệm thần chú.

                      một bà lão sống cô độc, lại quê mùa dốt chữ, đi hành hương được một người truyền cho câu thần chú “Án ma ni bát di hồng”. trên đường về nhà ella bà lẩm bẩm cố học thuộc lòng, nhưng ella đã nhớ lộn cách phát âm trở thành “Án ma ni bát di xanh.” she bà bày hai cái chén, một đầy đậu và một không. mỗi khi ọc xong một câu thần chú, bà nhặt một hạt ậu từ trong chén ầy bỏ sang cái chén không, ến khi cái chén không đã chứa ầy ᬺ ellang bu. bà lão đã không ngừng nghỉ, thành tâm tụng niệm suốt ba mươi năm. lòng thành kính của bà đã ứng hiện, sau này cứ một câu thần chú vừa phát ra thì một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén c de ella. bà lão thấy những hạt đậu tự động biết bay thì ella biết rằng sự tu hành đã đúng đường, bà càng phấn khởi tụng niệm say h>

                      một hôm, một vị cao tăng từ tây tạng vân du qua đó, khi đi ngang qua chiếc lều tranh, thấy có ánh hào quang tỏa ra rực rỡ. sư vội ghé vào thăm hỏi. thấy vị cao tăng đến thăm, bà lão vui mừng quỳ xuống đảnh lễ, miệng de ella vẫn cứ tiếp tục lẩm bẩm Án ma ni bát di xanh. sư ngạc nhiên không hiểu ang hào quang rực rỡ kia phat xuất từii đu, hỏi thăm và ược bà cho biết her đã sống cô ộc và tụng chú of her suốt ba mươi nĂm. sư tiếc nuối: “bà lão đã đọc sai câu thần chú đó rồi, phải phát âm là Án ma ni bát di hồng mới đúng.”

                      sau đó, sư từ giã bà lão, tiếp tục lên đường. bà lão lại tiếp tục tụng niệm, lần này với câu thần chú mới Án ma ni bát di hồng. thế nhưng tâm tư bà còn hỗn độn mất tập trung. mỗi câu thần chú của bà không còn làm cho những hạt đậu hứng khởi nhảy nhót nữa.

                      sư đi được một đỗi xa, wharf đầu nhìn lại thì thấy căn nhà của bà lão không còn hào quang chói sáng. sư giật mình và nghĩ ra chính ông đã làm hại phật tử này không còn tập trung tâm tưởng như trước. sư vội vã quay lại túp lều tranh và nói với bà lão: “thật ra câu thần chú của bà tụng mới là đúng. tôi muốn thử xem lòng thành kính của bà đối với tam bảo như thế nào thôi. từ nay về sau bà cứ tiếp tục tụng niệm y như cũ là đúng rồi.”

                      sau khi sư ra đi, bà lão lại tiếp tục tụng chú. mỗi một câu Án ma ni bát di xanh được niệm ra thì tâm bà vô cùng hoan hỉ, và một hạt đậu tự động nhảy sang cái chén bên cạnh of her. sư lên đến đỉnh núi và nhìn trở lại thì thấy hào quang hào quang phát ra từ túp lều tranh của bà lão sáng rực một góc trời!

                      hai truyền thuyết, hai thati cực, biểu thị ch c ” ậco ậco ậco ậco ậco ậco tuchco like. hành trì của nhiều trình độ hành giả khác nhau. Đó là:

                      1. chân ngôn (văn) là lời phật, mỗi chữ, hay gọi là chú tự luôn hàm chứa ý nghĩa thiêng liêng siêu diệu, và trí tuệ thâm áo. người tu học phải cố gắng hiểu nghĩa (tư) lời dạy của ân trên sâu xa khôn tận, giúp ạt ược bản nguyện there are nguyện cầu chân thật, và giú hệc. nhưng hiểu rồi thì buông, đừng bám vào văn tự mà phải trụ ở hành trì (tu) thì mới đắc quả.
                      2. chân ngôn có những âm thanh riêng biệt và những tác dụng bí ẩn chứa đựng trong âm thanh đó; âm thanh này có chứa đựng ánh sáng trí tuệ và năng lượng. hành giả thiền định cần lắng nghe âm thanh trong tâm minh tương ưng với vũ trụ bên ngoài, cho đến khi hội nhập chân tánh. Đây là sự tu tập toàn diện, bằng cả thân, tâm và ý: thân thiền, tâm định, và ý quán thông.
                      3. chân ngôn đến từ chư phật, bậc từ bi hỉ xả, yêu thương và bình đẳng. Điều kiện thiết yếu khi trì tụng chân ngôn là chân tâm và sự triệt ể tập trung there are “nhất tâm” từ đó nhận được các lợi lạc khôn lường.
                      4. bồ tát ại trí tuệ thth thân, không chỉy dạy gian bằng thuyết phap và luận lý, mà bằng cả cảc ạn ạ ta ạn ạm. tu lẫn thân tâmý. một câu nhắc nhở của ngài, “ừng cố nắm bắt lấy chữ nghĩa mà lại bỏ qua chủí đích của chung” và sề sề nht, và sề sề n, và sề sề nht, và sề sề n, và sề sề n, và sề sề n, và sề sề nht. diện.

                        Bà lão mù chữ (Trong truyền thuyết) là biểu tượng cho những người tu có tâm ịa ơn thuần, không biết gì hơn là dùng trọn cai tân thric cai tâm vông tha Thiết đó Sau đỗi thấu được tầng trên và rồi chan hòa ánh sáng.

                        b. cÁch thỰc hÀnh trÌ tỤng thẦn chÚ lỤc tỰ

                        việc trì hành thần chú “om mani pad me hum” có một số phương cách khác nhau tùy theo mục tiêu và cứu cánh của hành giả. trong các nghi thức lễ lạc của phật giáo Đại thừa nói chung, đều có tụng câu chú này. tuy ại thừa bắc tông nghiêng về lục tự di đà, cứu canh ược vãng sanh, vẫnco nhiều hành giả nhận lợc từ chú ại minh và hành trì cảc tần cùn cynh. vạn sự tùy duyên, việc trì niệm thần chú của chư phật nói chung theo ba nguyên lý đề cập ở trên. dưới đây là một số các phương pháp thông dụng có thể thực hiện được trong đời sống hằng ngày của bất kỳ hộp đh.

                        • niệm chú đếm hạt châu
                        • còn gọi là lần tràng hạt hay sổ châu. thường đi chung với điều tức hay kiểm soát hơi thở. người tân tu theo phương pháp này dễ thực hiện và ghi nhớ. mang theo xâu chuỗi hạt bên mình, tự hứa nguyện là sẽ tụng bao nhiêu chuỗi trong thời khoảng nào. cứ mỗi lần tụng (đọc lên hay đọc thầm) một câu “om mani padme hum” lại lần một hạt, cho đến hết chuỗi (108 hạt). pháp này giúp tập trung tư tưởng, và tạo tập quán niệm chú. có tác dụng ít hay nhiều tùy vào nguyện lực, sự chú tâm và tinh tấn tủa hành giả.

                          • niệm chú theo hơi thở
                          • pháp này có thể làm mọi lúc mọi nơi, vì chỉ tập trung vào hơi thở. tuy nhiên vì không có phương tiện bên ngoài (như tràng hạt) nhắc nhở, nên hành giả phải quyết chí tự tập trung bản thân niệm. Việc Trì Chú nương Theo Hơi Thở Là Một Trong Những Cách Tuy ơn Giản Vì Chỉng Chính Hơi Thở Ra Vào Của Chính Mình, NHưNG LạI HữU Hiệu, Vì lúc tuy nhiên, lúc mới tập hành giả cần có đức tin và sự tập trung để làm chủ tâm mình nhớ niệm chú theo nhịp thở.

                            hành giả chỉ đọc (thầm) thần chú theo hơi thở như sau: khi hít vào (phình bụng) – đọc: “om mani”; khi thở ra (xẹp bụng) – đọc: “smoking pads”.

                            nếu thực hành được điều này, cả ngày không lúc nào tâm rời khỏi câu thần chú, tất sẽ luôn được sợc mạnh th>

                            • tập trung tụng niệm thần chú
                            • Đây là cách hoàn toàn tập trung thân khẩu ý vào việc trì chú. có thực hiện riêng một mình hay trong các tự viện c các phật tử khác.

                              khi trì chú thì cần tập trung tâm ý vào thần chú mới có thể phát huy tối đa tác dụng. niệm thành tiếng, và tập trung tự lắng nghe lại chính âm thanh trì chú mà mình, sẽ dễ phát huy năng lượng. dùng tràng hạt thì tay trái lần tràng hạt, khi đó sự tập trung của cũng tăng lên và sức mạnh câu thần chú cũng được Ừn.c

                              sau mỗi buổi thực hành cá nhân hay tập thể, đều cần hồi hướng công đứccho tất cả chúng sanh đều trọn thành phật đạo. trong việc tu tập, bất cứ đọc tụng kinh sách nào đều cần phải hồi hướng công đức thì mới xem như viên mãn. Không Thể Giữ Những Công ức ấy Cho Riêng Mình, Vì Lòng ích Kỷ quy ngã là đi ngược lại nguyên tắc từc từc từc bi hỉ xả vô ngã củattt ạo, và công ức ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ

                              • thiền quán lục tự Đại minh
                              • Đây là mật pháp thiền quán Âm, vận dụng tinh hoa của lục tự Đại minh thần chú đưa vào tâm để tạo thành năng lợng vi.tợng. pháp môn phi thường này cần có minh sư chỉ dẫn và theo dõi. dưới đây chỉ là vài nguyên lý cơ bản của pháp môn.

                                danh hiệu “quán thế Âm” tượng trưng cho cái nghe ngược về bên trong tâm ý. thông thường, ý nghĩa là bồ tát quán sát, lắng nghe âm thanh kêu khổ của thế gian để khởi tâm đại từ đại bi cứu khổ chg sanh. trong pháp tu, quán thế Âm còn có ý nghĩa là cách quán sát âm thanh thế gian qua năm tầng lớp, dần đi đến phật thừa.

                                Đầu tiên, hành giả quán sát âm thanh giả, tập lắng tâm thật tịnh tiến dần đến điểm lặng yên tột cùng. thí dụ trụ tâm chặt vào câu niệm “om mani padme hum”. bậc thứ nhì đó là tập quán sát thực âm, âm thanh thực tế của cuộc sống. trụ tâm vào âm thanh này thì âm thanh này biến thành mã khóa và nó có tác dụng cột chặt tâm để vào định. kế tiếp là quán sát âm thanh vi tế hơn gọi là diệu âm. diệu âm có nghĩa là không phải nghe âm thanh bằng lỗ tai, mà nó là cái hiểu biết qua sự nghe, gọi là nhĩ thức. bạn nghe một âm thanh não vận động, tư duy tạo ra một ý niệm về âm thanh này gọi là cái biết của sự nghe, gọi là nhĩ thức. nếu thực sự tu đến mức độ này thì sáu căn sẽ hợp nhất. không những nghe bằng tai, mà còn nghe bằng mắt, nghe bằng mũi, nghe bằng lưỡi, nghe qua xúc giác của đụng chạm sờ mó. nếu không trụ vào các căn mà trụ vào cái biết của căn khi đối diện với lục trần thì nhĩ thức cũng như các thức khác. cái biết sau khi nghe cũng như cái biết sau khi thấy, không khác gì nhau. bởi vậy gọi là quán sát âm thanh ở thể diệu âm. nếu đã thực chứng diệu âm tiến lên quán sát âm thanh của Đà la ni hay thần chú của chư phật, là âm thanh không nội dung, hay âm thanh vô ngã. nhập vào biển âm thanh này, âm thanh chỉ là tác nhân, khiến năng lượng giác ngộ hiển thị thành phật lực, khiến trí tuệ phát triển thin thàn. giai đoạn chót, âm thanh thứ năm, dạng âm thanh tối thượng, nếu thực chứng sẽ ạt bát nhã ba la mật đa, đó là âm thanh cõi lặng tiêng. Âm thanh không tiếng động là ý nghĩ trong đầu, đó là cảnh biến diệt của nội tâm, là chứng nhân cho trạng thái vận động của não. tâm không có ý niệm không có âm thanh nào thì biết nó không có âm thanh nào, âm thanh nào khởi lên có đặc tính của âm thanh ấy. Sự nhận biết, chứng kiến ​​trạng thati biến dịch của tâm qua kỹ thuật lắng nghe âm thanh của tâm thức chynh là sự cảm nhận, gọi là âm thanh cõi lặng yên. chân không, chân tâm chính là pháp giới này. nghe được âm thanh của chân tâm thì tượng trưng cho bồ tát quán thế Âm nghe tiếng kêu khổ của thế gian.

                                bồ tát quán thế Âm đã tuyên thuyết lục tự Đại minh “om mani padme hum”. Gọi là ại minh tất công nĂng là pHải giúp cực kỳ sáng suốt, sự sáng suốt này ến từ ngã âm thanh, từ giả âm, ến thực âm, diệu âu âu â Â của chân không. Đây là pháp môn cực kỳ thiện xảo vi diệu. thần chú “om mani padme hum” có công năng giúp đạt được sự việc ấy. Đây chính là chân lý của sự tán thán từ Đức phật về thần chú này: “Đây là thần chú lợi lạc nhất. ngay cả ta cũng đã phát nguyện này trước tất cả một triệu đức phật và sau đó nhận lãnh giáo lý này từ đức phừ ”. a di

                                bẠt

                                khi biết thời gian mình sắp từ giã nhân gian và nhập vô dư niết bàn, ức thế tôn thích ca mâu ni đ .. gấm chúng sanh vô minh phiềnn não n. you bi phật di Đà đã trao truyền cho nhân loại hai pháp lục tự: lục tự di Đàlục tự Đại minh. rồi Đức phật a di Đà đã ủy thác cho bồ tát Đại từ bi quán thế Âm truyền bá hai pháp môn lục tự này hầu cứu độ chúng sanh.

                                chúng sanh.

                                chúng sanh.

                                trong thời mạt pháp, hai pháp lục tự này vô cùng thích hợp với căn cơ và nhân duyên của chúng sanh. ai có duyên gắn bó với pháp nào thì tu tập theo pháp đó.

                                phật tử trong thời hiện đại tâm tư rất chao đảo tán loạn trước vô vàn giả cảnh. việc trì niệm hai pháp lục tự: “om mani padme hum” hay “nam mÔ a di ĐÀ phẬt” sẽ giúp ta không bị quá phân tâm vào đời thường, còn NHớ Về PHậT PHAPP, TÍCH LũY CôNG ứC TU HànH, GIảM THIểU TAI NạN RủI RO, GIảI TRừT BớT NGHIệP CHướNG TRượC LậU, Và Sáng tỏn Hơn Trên With ường ạO.

                                nam mô thập phương thường trụ tam bảo,nam mô bổn sư thích ca phật,nam mô a di Đà phật, > >nam mô quán thế Âm bồ tát ma ha tát,nam mô thanh tịnh Đại hải chúng bồ tát.

READ  Nhân viên phục vụ tiếng anh là gì? Vì sao nhân viên phục vụ cần biết tiếng Anh?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *