Tiêu đề của bộ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh có ý nghĩa gì?

Bát nhã ba la mật đa là gì

Bát nhã ba la mật đa là gì

những giáo lý cơ bản để tìm hiểu bát nhã tâm kinh

bát nhã tâm kinh là bản kinh thâu tóm mọi ý nghĩa thâm yếu và cao siêu của bộ Đại tạng kinh ma ha bát nhã ba la mật Đa.

trước khi đi vào nghiên cứu tìm hiểu bát nhã tâm kinh, ta hãy đọc tụng bản kinh đó bằng cả hai bản hán việt và bản đã c đưị

bản phiên âm chữ hán: bát nhã ba la mật Đa tâm kinh

quán tự tại bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ​​​​ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

xá lợi tử! sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

xá lợi tử! thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. thị cố không trung vô sắc; vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô tri, diệc vô đắc.

vô sở ắc cố, bồ ề tát ỏa and bát tam thế chư phật and bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

cố tri bát nhã ba la mật đa, thị ại thần chú, thị ại minh chú, thị vông chú, thị vô ẳng ẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chổ.

.

cố thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đồ, bồ ha tá></

thần chú trong bat nhã tâm kinh

bản dịch: bát nhã ba la mật Đa tâm kinh

ý nghĩa thâm diệu bát nhã tâm kinh, cần phải ề cập ến mấy luận điểm cơ bản như lý thuyết duyên sinh, vô ngã, vôthundo thƿtíờng, kh tímhng, sinh bát nhã, lý luân phủ định và khẳng định.

ngài quán tự tại bồ tát sau khi hành trì sâu vào pháp bát nhã ba la mật Đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền vượt qua tấ kht c.

này ông xá lợi tử! sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

này ông xá lợi tử! tướng không của các pháp không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm không bớt. cho nên, trong chân không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới; he không có vô minh cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.

vì không chứng ắc, bồ tát and theo bát nhã ba la mật đa nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nêng sợ hãi, xa lìa mộng ạng ạngạng ạng ạng ạng ạng ạng. chư phật ba đời cũng and vào bát nhã ba la mật Đa mà chứng được đạo vô thượng chính đẳng chính giác..

READ  Viêm khớp ngón tay

cho nên biết bát nhã ba la mật đa là thần chú lớn, là minh chú lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, nên trừ ược tất khẕ ách, khả. nói ra bài chú bát nhã ba la mật đa, liền nói chú rằng: yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

tìm hiểu về tieu đề của bộ kinh

tiêu đề của bộ kinh gồm mười chữ ma ha bát nhã ba la mật Đa tâm kinh. thông thường người ta bỏ hai chữ ma ha và thường chỉ gọi tám chữ bát nhã ba la mật Đa tâm kinh và còn gọi tắt là bát nhá tâm kinh kinh hay tâm. tên của bộ kinh gồm các từ tiếng phạn là mahà phiên âm là ma ha, trung hoa dịch nghĩa là Đại (to lớn); từ prajnà phiên âm là bát nhã, và pàramità phiên âm từ tiếng phạn là ba la mật Đa. hai chữ sau là hai từ chữ hán: tâm là chữ hán dịch chữ phạn hrïdaya. kinh là chữ hán dịch chữ phạn sutra. vậy nguyên văn pHạn ngữ của tâm kinh là mahà prajnà pàramità hrïday sutra, và ược dịch là ma ha bát

bây giờ ta tìm hiểu ý nghĩa của từng từ một:

ma ​​ha (mahà) , chứ hán dịch là đại (lớn), đa (nhiều). Thông thường người ta thường bỏ hai chữ ma ha này bát nhã (prajnà), chữ pHạn nàyc nhiễm ô). vì có nhiều nghĩa như vậy, nên trong những nghĩa đó thì chữ trí tuệ, như trên đã nói là gần với nghĩa bát nhã nhất. nhưng vì trong hoa ngữ không có một từ ngữ nào tương đương với từ bát nhã trong tiếng phạn nên về sau người ta bắt buộc phải tạo từ mới bằng cách ghép thêm chữ không vào để tăng cường và xác định ý nghĩa của từ tuệ và trí và ta có không tuệ và không trí. không ở đây không phải là không ngược với có mà chữ không biểu thị sự trống rỗng, vắng lặng, siêu việt. nhưng dù có dùng thêm chữ không cũng vẫn chưa lột hết ý nghĩa hàm ẩn trong danh từ bát nhã (prajnà) của chữ phạn, người ta vẫnhãn dùngán dùng ch. nghĩa gốc của bát nhã chuyên chỉ cho loại trí tuệ đặc biệt, trí tuệ của bồ tát đại thừa, phát sinh từ công hạnh tu hành theo kháp quán mà. Ðây là loại trí thanh tịnh của chư pHật vừa rỗng lặng vừa soi suốt, nhờ đó mà quán chiếu ược thật tướng của capp phap và thấy rõ các ược qua khứ v à v à v à v à v à v à Ðây không pHải là loại trí tuệng thường mà nhà pHật gọi là thế trí biện thông, cũng không pHải là trí tí tri ngoại ạo there vì thế ể ể Tránh mọi ngộ nhận vô tình there are cố ý, vĂn học phật giáo trung quốc buộc lòng pHải dùng and nguyên tiếng pHạn là Bát nhã với những chú giải kèm the Theo. <

cần phải hiểu rằng: trong kinh luận chia bát nhã thành ba loại: văn tự bát nhã, quán chiếu bát nhã và thật tướng bát nhã.

theo văn tự ghi chép trong kinh luận there nghe diễn giảng về giáo nghĩa bát nhã mà phat without trí trí tum, rồI ự ự ựi tat tua nha. nó cũng được gọi là phương tiện bát nhã, nghĩa là thứ trí tuệ do phương tiện của ngôn ngữ văn tự mà phát sinh.

READ  CHÍNH PHỦ

tiến lên một bước nữa, do theo các khái niệm đã lĩnh hội ược ể suy tư quan sat thật tướng cac phap, rời bỏ tướng ngữ ngôn văn tự, Trong lúc tâm bày ra dưới sự xem xét của trí tuệ thì gọi là quán chiếu bát nhã.

từ sự quán chiếu ấy, gia công hành trì quán sát ến một mức thâm sâu nhuần nhuyễn, nhuần nhuyễn ến ột cử nh ột ộộng, cho. niệm bỗng nhiên bừng sáng chói, hòa ồng và trùm khắp tất cả, không còn ranh giới giữa bỉ thử, nhân ngã, nội ngoại, thị phi (Này, kia; tôi; bát nhã sáng chói ấy gọi là thật tướng bát nhã, cũng gọi là căn bản bát nhã.

vì vậy, văn tự bát nhã chỉ ược xem như một loại trí tum pHương tiện giúp soi ường choc choc hành giả trên tiến trình tập quán chiếu bát giải thoát, giác ngộ.

ba la mật Đa chữ phạn là pàramità. từ ngữ này ngài cưu ma la thập (344 – 413), vị cao tăng người ân ộ sang trung hoa từ thế thứ thứ iv, phiên âm là ba la mật và dịch nghĩa là ộ ộc là ư ư ư ư ư ư ư ssong, ssong, sangng, sangng, sangng, ssong, sangng, ssong, sangng, ssong, sangng, ssong, sangng. còn dịch là đáo bỉ ngạn tức là đến bờ bên kia. Ðộ hay đáo bỉ ngạn đều chỉ là những từ ngữ dùng để nói lên sự giải thoát khổ đau. cõi sinh tử mà chúng sinh đang trôi lăn được xem như bờ bờ bên này, thì bờ bên kia được ví với niết bàn, ở đó chúng sinh ởi t òng singo. ngăn cách giữa hai bờ là with song phiền não. vượt song phiền não tức đến niết ban. vì vậy, bờ bên kia nguyên là từ ngữ ngầm chỉ cho niết bàn. với sự xuất hiện của Ðại thừa mà mở đầu là bát nhã, with song ngăn cách không phải chỉ có phiền não mà thôi, nó còn là with ắa mên. cho nên, bờ bên kia vừa là bờ giải thoát (niết bàn) vừa là bờ giác ngộ (bồ đề).

Ðể đạt được đến bờ bên kia, phải tu theo sáu pháp ba la mật. sáu ba la mật gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ (tức trí tuệ bát nhã). hành trì bất cứ pháp nào trong sáu pháp ấy cũng đều đạt kết quả mong muốn là bước lên bờ bên kia. phật giáo Ðại thừa xem nặng về quả vị giác ngộ hơn. cho nên, bát nhã ba la mật tức trí tuệ ba la mật được xem như pháp tu đứng hàng đầu trong số sáu ba la mật. theo Ðại thừa, niết bàn còn có nghĩa viên tịch. tịch tức tịch diệt còn viên tức thành tựu viên mãn cả phúc lẫn tuệ. nếu thành tựu được vô thượng bồ đề thì viên mãn cả hai phúc và tuệ mà giải thoát. như vậy, với Ðại thừa, bờ bên kia có nghĩa là bờ giác ngộ. có biết như thì mới hiểu ược vì sao cùng theo một pháp tu bát nhã ba la mật đa, nhưng chư phật thì chứng ắc vông bồ ề ệng ếngng ọngng ọngngngngngngngngngngngngng ọngngngngngng ọngngngngngngngng ọngngngngngngngng ọngngngngng ọngngngngngng ọngngngngngng ọngngngng ọngngngngng. chi phối nữa.

READ  Vệ sinh an toàn thực phẩm tiếng anh là gì? (Cập nhật 2022)

tóm lại, bát nhã ba la mật Đa nghĩa là pháp tu dùng trí tuệ siêu việt để qua bờ giác ngộ ở bên kia song mê. nội dung của pháp tu này là quán chiếu bát nhã.

bát nhã ba la mật đa tâm kinh: pháp tu đưa qua bờ giác ngộ ở bên kia song mê

tâm có nhiều nghĩa nhưng chữ tâm trong tiêu ề kinh này có nghĩa là trung tâm, là cốt lõi, là toát yếu, là cô ặc và người xưa lòngọi l. thông thường người đời cho rằng tinh túy của sự vật nằm ngay trong lòng của nó. Với with người cũng vậy, ứng về mặt sinh lý mài, Máu huyết từ tâm tức là từ từ trai tim phat ra, chảy khắp thân thể ể ể nuôi các tế bào, rồi quay về tim mà phát. Ðứng về mặt tâm lý mà nói, các hiện tượng tâm lý đều phát xuất từ ​​​​tâm, rồi cũng trở về đó để phối kiểm lỡim. vì tâm được hiểu như trung tâm. cho nên, tất cả tinh hoa được xem như đổ dồn và tập trung về đó. như vậy, bát nhã tâm kinh là bài kinh cô đúc tất cả tinh yếu của giáo nghĩa bát nhã. ta có thể dịch bát nhã tâm kinh ra tiếng việt là kinh lòng bát nhã như người xưa thường gọi, hay v y “v y” v y “v y” v y “v y” v y “v y” v y “v y” v y “v y” v y “v y” choh c cho hà c cho hà c cho hà c cho hà c cho hà c cho hà ch phim v ệp v ệp v à phi. gọi là tâm kinh bat nhã.

kinh là danh từ dịch nghĩa phạn ngữ sũtra, phiên âm tu đa la. tu đa la, trung hoa dịch là tuyến, nghĩa là sợi chỉ, hoặc xâu với nhau.

tu đa la so với kinh trong hoa ngữ, hình thức cấu tạo tuy không giống nhau, nhưng nội dung hai bên giống nhau. trong hoa ngữ, những sách ghi chép những lời của thánh nhân truyền dạy thì gọi là kinh, vì những lời đó làm tiêu chuẩn cho muôn đờs. khác với sách ghi chép những lời của danh nhân, chỉ được gọi là truyện.

ta nên biết thêm rằng lời phật dạy gồm có hai phần: pháp (dharma phiên âm là đạt ma) và giáo (vinãya phiên âm là tỳ nại da). cả hai đều gọi là kinh hết, vì đều do phật dạy. nhưng về sau lại tách thành hai phần riêng gọi là hai tạng. cho nên, chỉ những sách ghi chép pháp mới gọi là kinh, còn những sách ghi chép giáo thì gọi là luật. tạng ghi chép những lời chú thích biện giải của các tổ về sau, thì được biệt lập thành một tạng riêng nữa gọi là luận. Đó là tam tạng: kinh, luật và luận. bát nhã tâm kinh này thuộc tạng kinh.

tÓm lại, “bát nhã ba la mật đa tâm kinh” nghĩa là: bài kinh thâu tó yếu nghĩa tinh túy cốt lõi của bộ ại tạng kinh ại thừa tứa m ha bá bá bá bá. tu quán chiếu bát nhã đưa hành giả lên bờ giác ngộ bồ Đề.

khảo cổ học tìm thấy bản bát nhã tâm kinh của Đường tăng huyền trang

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *