Ý nghĩa của câu Nam mô A Di Đà Phật

Na mô a di đà phật là gì

Na mô a di đà phật là gì

Ý nghĩa của câu “nam mô a di Đà phật”

  • bài 01: yếu nghĩa của nam mô a-di-đà phật
  • bài 02: Ý nghĩa niệm “nam mô a di Đà phật”
  • bài 03: Ý nghĩa của 6 chữ: nam mô a di đà phật
  • bai 01: yếu nghĩa của nam mô a-di-đà phật

    a-di-đà là phiên âm chữ amita, Sanskrit tiếng, dạng viết tắt của hai chữ amitàbha có nghĩa là “vô lượng quang” – “ánh sáng vô lượĩg” và amityus là “ vô lượng thọ” – “thọ mệnh vô lượng”. Ðây là tên một vị phật quan trọng được tôn thờ nhiều nhất trong Ðại thừa, giáo chủ cõi tây phương cực lạc, tiếng sanskrit là sukhàvati, và được nhân gian tin thờ sớm nhất trong lịch sử phật giáo, vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên (1).

    phật tử theo tịnh-Ðộ tông đã tin thờ lan rộng nước tây tạng, trung hoa, nhật bản và việt nam, coi Ðức a-di-đà là biểu t cho. người tu tu tịnh -ðộ tông thường thờ tượng a-di -đ đ tam tôn, ở giữa là phật di ðà, bên phải là ðại thế chí bồ tát, bên trái tábá là quán.

    adidaphat

    nam-mô a-di-đà phật! Sáu Chững Danh Xưng niệm phật hiệu đã trở thành câu niệm phật quen thuộc và pHổ Biến rất rộng rãi trong giới phật tử xuất gia cũng như cư sĩ tại gia. mức độ thông dụng trong sinh hoạt hàng ngày chứng tỏ lòng tín niệm của phật tử thể hiện ở câu chào khi gặp nhau gồm có bốn chữ a-pht!

    về mặt giáo lý, đây là phap trì danh niệm pHật trong tịnh-ðộ tông ược tín hành nhiều nhất, ngắn gọn dễ dàng your tập nhất, thích hợp với tất cảt cảt cảt cảt cả There are hạ căn, Trí huệ cao there are thấp, nghiệp chướng nặng there are nhẹ, chỉn hành giả trì danh nhất tâm tín nguyện, không thối chuyển cho ến khi dẫn về tây phương cực lạc.

    phổ biến lan rộng như thế, thông dụng thích hợp với mọi căn duyên chư thế, dễ dàng hành trì tập như thế, Sáu chữ nam-mô a-di-đà phật lạic đệ nhất thù thắng so với các pháp môn tu tập khác. Ðiều này là mối nghi trong tâm thức của đa số pHật tửc có thiên kiến ​​lệch lạc về công nĂng của phap đủ khả năng theo thiền tông hay mật tông.

    ðể giải trừ mối nghi thiên lệch này, xin mời ai có nghi tâm lắng nghe ðức phật thích ca nói trong kinh niệm pHật ba-la-mật: nếu có của danh hiệu khiến cho tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhi chứng nhập sơn pháp tháp thân v-biết la đủ. Vì danh hiệu phật chính là biểu tượng của phap thân, do

    trong kinh ðại tập pHật dạy: thời mạt phap vạn ức người tu không ược một người giải thoot, chỉng phap môn niệm pHật mới cór khỏi ược luân hồi. pHật còn so sánh với phap môn thiền ðịnh: nếu cầu vô thượng bồ-ề nên tu niệm pHật thiền tam mue phạn: phụ vương nên niệm danh hiệu của phật a-di -đi nơi cảnh tây phương cực lạc, tinh tấn chuyên cần thì sẽ thành phậnh, niỻ mệt

    ngoài ra trong nhiều kinh Ðức phật thuyết về tịnh Ðộ, ngay cả các kinh về mật tông cũng nói đến phật a-di-đà. một nhận xét chính yếu ể giải trừ mối nghi về tu thiền và phap môn niệm phật: your thiền mà không ược chân truyền rất dễc vào tà tà kiến, ma ạo thường gọi gọi là m mọt đục mắt tre. do đó tu thiền cần thêm niệm phật, nhiều thiền sư vẫn chuyên cần niệm phật. Ðây chính là nguyên do có giải pháp thiền tịnh song tu. mật tông cũng thờ phật a-di-đà, xưng là cam lộ vương, sáu chữ hồng danh gọi là cam lộ chú, cam lộ minh.

    nói ến Sáu chững danh nam-mô a-di-đà phật, nhiều người có tín tuy tu pHật cầu phước đã ngộ nhận đây chỉ là câu niệm phật cầu xin ân cứu ộ ộ ộ sự thật không ơn thuần giản dị như vậy, càng thâm tín, càng lý giải tường tận, càng hành trì miên mật hành giải dần dần tỏ ngội nội dung ngộ mới tỉnh thức được rốt ráo. trong giới hạn một bài viết, ở đây chỉ trình bầy một số đặc thù của pháp môn niệm phật, lấy sáu chữ nam-mô a-di-đtà lphàp</

    i- giẢi thÍch phÁp mÔn niỆm phẬt.

    * giẢi thÍch theo tỪ ngỮ. niệm có nghĩa là nghĩ ến, nhớ ến, giữ lại trong tâm thức, nghĩ ến như ý niệm, khái niệm, quan ni…, nhớn khh. tưởng nhớ đến phật. từ ngữ pHật ở đây Có NGHĩA rất rộng bao gồm danh hiệu, sắc thân, phap thân, ân ức phật… pHổ hi hiền ðại bồ tát giảng vềc tực tựng danh có vôn vôn vôn vôn vôn bất kh sau đây chỉ là sơ lược yếu chỉ chia làm ba phần:

    nam-mÔ: phiên âm tiếng Sanskrit namah, có nghĩa như quy and quyết tâm vâng theo, cung kính và nương theo gửi đời mình cho phật. Ðây là giai đoạn thủy giác có nội dung bao gồm năng niệm, trì giới, diệu quan sát thế gian giới, là bắt đầu đi trên with đáườp gi.

    a-di-ÐÀ : phiên âm tiếng Sanskrit amita, có nghĩa vô lượng quang và vô lượng thọ, chỉ năng lực bất tư nghị của Ðức di- Gives. Ðây là giai đoạn tương tục giác, có nội dung bao gồm tương tục niệm, thiền ịnh thâm nhập phÁp giới, bình ẳng tánh trí, là liên tiế.

    phẬt: phiên âm tiếng Sanskrit buddha, tức phật-đà nói tắt, có nghĩa là giác ngộ, dứt khỏi luân hồi, giải thoát. Ðây là giai đoạn bản giác, có nội dung bao gồm thành tựu sở niệm, trí huệ, là đại viên cảnh trí, vô tận sở hữu trí, vinên qu.

    nói tóm tắt, ba giai đoạn gồm có thường, tịch và quang.

    niệm phật là pháp hữu vi tác nghiệp gieo nhân lành gồm cả ba nghiệp thân, khẩu và ý. khi niệm phật, hành giả thường đứng hay ngồi ngay ngắn, thái độ trang nghiêm, mắt nhìn thẳng vao hình tượng phật: Ðó là thân nghi. hành giả nói ở miệng thành lời: Ðó là khẩu nghiệp, từ ngữ xưng niệm diễn tả rõ nghĩa này. hành giả nghĩ tưởng đến phật: Ðó là ý nghiệp, từ ngữ tâm niệm diễn tả rõ nghĩa này. niệm phật cần pHải tín nguyện và nhất tâm thì mới thành tựu ược công ức phapc tu này là là lúc mệnh chung vãng vềi nơi cực lạc, ạt tới phap

    theo kinh niệm phật ba-la-mật, niệm phật xưng danh a-di -đi với sáu chữ nam-mô a-di-đric luôn luôn nghĩ tưởng trong thâm tâm: pháp thân, hóa the và báo tha ðức phật a-di-đà đang hiện ra trong thn và tâm của mình, và danh hiệu nam-mô a-di-i-à phật đt đt đt đt đt đeg tthy ch một dòng tâm, lâu ngày sẽ thành một khối lưu lưu lưu lưu ly sáng rực… danh hiệu nam-mô a-di-đà phật sẽ lọc sạch phiền não trong thân tâmi ngư. hành giả sẽ dứt hết nghiệp qua khứ, thân tâm trở nên thanh tịnh, chỉ còn nghiệp ở hiện tại.

    cõi tịnh Ðộ của Ðức phật a-di-đà mang tên tây phương tịnh Ðộ, tây phương cực lạc.

    siêu thăng tịnh ðộ chưa phải là nhập diệt niết bàn, chưa phải là tịch diệt, chưa phải là vô sanh, liễu sanh thoát tử, tóm lạiại hại chƏtho. Lý do: Sau khi ược phật a-di-đà tiếp dẫn khi mệnh chung vãng sanh vềi nơi cực lạc, hành giả đã dứt hết nghiệp quá khứ, thân tâm trởn that tịnh an trụ ở ở Hành giả chưa chứng nhập tịch diệt vì he vẫn còn tục tạo nghiệp, nghĩa là còn tiếp tục gieo nhân, chuyển hecha theo ồi bn hi hi vì vậy hành giả vẫ với thân tâm thanh tịnh đã ạt tới, lại ở nơi thường gập this chung bồ tát và chư pHật, hành giả có sẵn pHước duyên dễ dàng nhanh chứng ắng ắc ắc ph ật.

    kinh niệm phật ba-la-mật dẫn giải: niệm phật ba-la-mật là nhiếp thọ hào quang do phật a-di-đà phóng ra. cây cỏ, chúng sanh cũng đều có hào quang nhưng bị lu mờ vì vô minh. Khi niệm phật, hai hào quang của pHật và chung sanh dung thông nhau, lập tức ðức a-di-đà nhiếp thọ, và ngay lúc đó ở cực lạc thấy mọc lên một mộm sen củ dung thông phóng ra làm cho ác ma xa lánh 40 dậm và sen của hành giả sẽ được tươi tốt.

    niệm pHật ba-la-mật là rốt ráo nhất tâm tín nguyện, niệm sao cho không còn có một vọng tưởng nào ến quấy ảo ᧣ n hàm than c t hoa bùn, vẫn giữ được hương thơm nhẹ nhàng thanh thoát.

    trong phật học, hoa sen là biểu tượng của tâm thanh tịnh do hào quang của pHật a -di -đà nhiếp thọ tiếp dẫn đem về nuôi trong ao thất bảo (2) Co nước thanth tịnh gọ kể từ khi được nuôi bằng tịnh thủy, hành giả vẫn tiếp tục hành trì niệm phật miên mật bất thối để hoa sen tiếp ởc n cho. khi hoa sen mãn khai, hành giả ắc pháp vị a-duy-việt trí bồ tát, có ủủ phép thôn thông, có khả năng thuyết pháp ộ sanh như chư phẝhẻ hỉ, chỉ. p>

    theo từ ngữ, a-duy-việt trí là trí bất thối chuyển, viên mãn phật quả, nghiệp chướng được tẩy sạch, giải san thoát khỏi luâ. khi hoa sen chưa đến độ mãn khai trong ao thất bảo, nếu hành giả không giữ được tâm bất thối chuyển, hoa sen sẽ tàn héo. Ðây là trường hợp đáng tiếc, hành giả hết còn duyên với phật a-di-đà!

    nói cụ thể hơn, sau khi ươc vãng sanh về tây phương cực lạc, hành giả vui hưởng quả phúc nơi tịnh ðộ thường sanh tâm luyến chấp lạc cảnh nơi này, t. niệm phật như trước. người khéo tu cần nhớ nhập tâm: vãng sanh cực lạc chỉi mới là giai đoạn tịnh hoá thân tâm, cần tiếp tục hành trì phat tâm cứu ộ Chung sanh mới ạt tới cứu diệt đươc khổ nhưng lại chấp thủ lạc thì chưa ra khỏi được luân hồi sanh tử.

    ii. nĂng lỰc bẤt tƯ nghỊ cỦa danh hiỆu phẬt.

    strong số tám vạn bốn ngàn pháp tu chỉ có pháp môn niệm phật là thù thắng đệ nhất, cứu cánh đệ nhất, hữu hiệu và siêt vihệt. Ðó là lời dạy của Ðức thích ca. sự nhất tâm niệm phật bao gồm cả hai phần sự và lý:

    -nhất tâm về sự là không trụ vào một niệm nào khác,

    -nhất tâm về lý là thể nhập vào thực tướng của phật, hành giả dần dần thành tựu chánh ðịnh như lai và tự nhiên tu phát khátán sangihác. <. <

    danh hiệu nam-mô a-di-đà phật sẽ lọc sạch phiền não trong thân tâm người niệm phật. nhờ xưng niệm sáu chữ hồng danh, hành giả nhìn thấy cảnh vật bên ngoài đúng như bản thểc chất của chúng, không còn bị t. >

    trong khi niệm phật, nếu gập bất cứ thanh trần nào cũng đừng để tâm vào, cứ tiếp tục niệm phật. Ðó là danh hiệu phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một dòng tâm mà mỗi sát na ều hiển hiện ch chn như tánh… tiếp tục hành thệ tì nihỺ,. khi ấy, phật trí tự nhiên tỏa rạng, danh hiệu phật vẫn tương tục, không gián đoạn. thuật ngữ phật học gọi là vong sỞ, có nghĩa không còn nghe thấy tiếng mình niệm phật. cũng nói là niệm, vô niệm, niệm khi không còn phân biệt năng niệm với sở niệm nữa. Ðó là khi hành giả đã chứng ngộ ngũ uẩn là không, ngã kiến ​​ngã chấp bịc lọc sạch, thân tâm trở nên quang minh thường tại, chiếu suốt mười phương pháp giới. nói cách khác, tri kiến ​​​​giác ngộ của hành giả trở nên đồng đẳng với tri kiến ​​​​giác ngộ của chư như lai.

    chúng sanh vô minh vì lý do chấp ngũ uẩn làm thân và tâm thật của mình. năng lực nhiệm màu của pháp môn niệm phật chuyển hóa dần dần vô minh thành viên giác teo tiến trình: biết tất cả các pháp ều nhễt ưnhễt, huyễt. biết là huyễn, là không tất sẽ ly. ly huyễn tức là giác. danh hiệu phật hòa tan căn, trần, thức và tất cả đều nhập vào viên giác tánh, cũng gọi là hư không tạng, vô cấu tạng, tạngh tịn. hành giả dần dần thành tựu chánh Ðịnh như lai, tự nhiên phát sanh tuệ giác không tánh. nói vắn tắt: niệm sanh tịnh, tịnh sanh Ðịnh và Ðịnh sanh huệ.

    Tuệ Giác Không tánh ạt tới mức hết sức thanh tịnh, gọi là vô cấu thức there are bạch tịnh thức, tiếng Sanskrit là a-mạt-la thức (thức thứ thứ 9, cao hơn trong kinh vô lượng thọ, Ðức thích ca bảo: này a-nan! Ðức phật vô lượng thọ oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh của chư phật chẳng bằng! (3)

    iii – niỆm phẬt tÔng yẾu.

    niệm phật là pháp môn tha lực duy nhất trong phật pháp mà điểm then chốt là tin tưởng tuyệt đối vào bổn nguyện của Ðửàc a-phdi-tàc. Ðó là dùng danh hiỆu của ngài để cứu độ tất cả chúng sanh. không hiểu tường tận ý này, nhiều người nhất là hàng cư sĩ tại gia thường cho rằng niệm phật xưng danh là pháp môn dành cho hạng hạ căn không đủ căn cơ để tu những pháp môn về thiền quán như quán thật tướng, quán tưởng , quán tượng, v…v… hơn nữa khi tu niệm phật phần đông mang tâm niệm tỰ lỰc, trông cậy vào sức mình để được vãng sanh. Ðây chỉ là tự lực niệm phật.

    pháp nhiên thượng nhân (1133-1212), tên nhật là honen, khai tổ của tịnh ðộ tông nhật bản (4) nhận ịnh tông yếu của lphử môn the. tac pHẩm quan trọng nhất tuyển trạch bổn nguyện niệm pHật tập ược coi như một ange linh văt bất hủ về tịnh ðộco những điểm then chốt như sau:

    1-thánh Ðạo môn gồm các pháp môn ngoài tịnh Ðộ tông tuy thâm diệu nhưng thời điểm và căn cơ chẳng tương ứng. tịnh Ðộ môn hình như nông cạn nhưng thời điểm và căn cơ đều tương ứng.

    thời mạt pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều tiêu diệt, chỉ còn pháp môn di Ðà để cứu độ chúng sanh.

    2-tông tịnh Ðộ siêu hơn các tông. hạnh niệm phật siêu hơn các hạnh. lý do vì thâu nhiếp tất cả các căn cơ.

    3- Chẳng kể có tội there are vôi tội, trì giới there are phar giới, tại gia there is xuất gia, thiện hay acid, trong các tiền kiếp cor puitc cơ thì chỉ có pháp môn tịnh Ðộ, hạnh niệm phật là yếu pháp thoát khỏi sanh tử trong đời này.

    4-quang minh của Ðức a-di-đà chỉ soi chiếu người niệm phật, chẳng soi chiếu người tu các hạnh khác.

    5-trụ vào cái tâm tha lực (nguyện lực của ðức di -ðà) mà niệm phật thì chỉ trong khoảnh khắc sẽ ược vào sự lai nghinh cứa ph -di.

    ðiều 18 trong số 48 ðại nguyện của ðức phật a-di-đà: lúc tôi thành phật, thập phương chung sanh chí tâm tín mộ mUốn Sanh vềc tôi, nhẫn ến mười niệm, nếu không ở ngôi chánh giác, trừ kẻ tội tạo ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp.

    ðiều 19 Bổ Sung Trường Hợp PHÁT Bồ-ề Tâm: Lúc tôi Thành Phật, Chung Sanh ở Mười phương phát bồ-ề tu các công ức, chí tâmm phát nguyện sanh về nướ nướ nướ tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mắt họ. nếu không như vậy, tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    6- niệm phật hoàn toàn không có hình thức, đã lấy khÔng hÌnh thỨc làm hình thức. chỉ cần biết rằng thường niệm phật, chí tâm niệm phật thì đến lúc lâm chung nhất định phật lai nghinh mà vãng sanh sang cõi cực.

    7- nếu thường xưng danh hiệu thì do công đức của phật danh, vọng niệm tự dừng, tán loạn tự yên, tam nghiệp tự điềềt.u, nguym>

    8- trong nhãn quan của pháp nhiên thì:

    -tam tâm (chỉ thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm) cũng là nam mô a-di-đà phật.

    -ngũ niệm (lễ bái, xưng tán, phát nguyện, quán sát, hồi hướng) cũng là nam mô a-di-đà phật.

    -tứ tu (cung kính tu, vô dư tu, vô gián tu, trường thời tu) cũng là nam mô a-di-đà phật.

    9- người lười biếng niệm phật là kẻ đánh mất đi vô lượng châu báu. người siêng năng niệm phật là kẻ khai mở ra vô biên sáng suốt. nên dùng cái tâm nƯƠng phẬt lỰc, cầu vãng sanh mà tương tục niệm phật.

    10- nghe nói một niệm, mười niệm cũng được vãng sanh rồi lơ là việc niệm phật: Ðó là tÍn chướng ngại hẠnh. nghe nói niệm niệm chẳng rời rồi nghĩ rằng một niệm vãng sanh bất định: Ðó là hẠnh chướng ngại tÍn. tin thì một niệm cũng vãng sanh, mà hành thì siêng năng xưng niệm suốt đời. vãng sanh mà nghĩ rằng nhất định thì nhẤt ÐỊnh, nếu nghĩ rằng bất định thì bẤt ÐỊnh!

    11- không để ý đến thiện ác của bản thân, chỉ một lòng cầu vãng sanh mà niệm phật. Ðó là tha lực niệm phật. tin rằng bản thân bị tội chướng khó được vãng sanh là điều sai lầm rất lớn. hạng vô trí, tội chướng niệm phật mà được vãng sanh mới là Ý chÁnh của bổn nguyện của phật a-di-đà.

    12- tuy được nghe danh hiệu mà không tin thì cũng như không được nghe. tuy có tín tâm mà không xưng niệm thì cũng như không tin. bởi thế nên một lòng niệm phật, không chút nghi ngờ.

    13- phật lai nghinh là ể người tu ni ệm phật lúc lâm chung ược chánh niệm, không phải lúc lâm chung cần phải có chánh niệm thì mới phới ưải.

    .

    14- tất cả phật pháp nhằm chế phục điều ác. vì hạng ngu si phàm phu không dễ gì làm được nên khuyên niệm phật để diệt tội. hễ có tín tâm thì tội lớn cũng diệt, không có tín tâm thì tội nhỏ vẫn còn.

    15- người tu tịnh Ðộ trước hết cần biết hai điều:

    -vì người có duyên, dù phải bỏ thân mạng, tài sản cũng nên vì họ mà nói pháp môn tịnh Ðộ.

    -vì sự vãng sanh của chính mình, nên xa lìa mọi phiền nhiễu mà chuyên tu hạnh niệm phật.

    ngoài hai điều trên, không nên tính toán gì khác. tất cả mọi việc trong đời đều and theo niệm phật mà quyết định. tất cả đều là trợ duyên cho niệm phật, hễ gây chướng ngại thì nên từ bỏ.

    16- thánh Ðạo môn (các tông phái khác) đều tu cái nhÂn của tam thừa, tứ thừa để được cái quẢ của tam thừa, tứ thừa. do đó không thể so sánh với hạnh niệm phật vì lý do mục đích khác nhau. còn trong tịnh ðộ môn thì các hạnh (ọc tụng kinh điển, lễ bái, quán tưởng, quán tượng…) và hạnh niệm phật ều là nhân ể vãng sanh჻nthên ván.

    nhưng các hạnh khác đều chẳng phải là di Ðà bổn nguyện, do đó quang minh của Ðức di Ðà chẳng jue nhiếp, mà Ðức thích ca cũc chóng ch. bởi thế, thiền Ðạo Ðại sư (5) có dạy: tất cả các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng so với niệm phật thì hoàn toàn đ჻ khong thanp>

    17- muốn mau lìa sanh tử, trong hai loại thắng pháp hãy bỏ qua thánh Ðạo môn mà theo tỊnh ÐỘ mÔn.

    trong các pháp tịnh Ðộ môn có hai hạng chánh và tạp, hãy bỏ qua các tạp hạnh mà quay về theo chÁnh hẠnh.

    trong phạm vi chánh hạnh cor Hi phần chánh ðịnh và trợ nghiệp, chớ Theo trợ nghiệp mà chuyên tu chánh ðịnh, tức xưng niệm pHật danh nương ượnn nguy di-iar niệm pHật là vi sanh là việc phật làm, hai việc hữu duyên tương ứng là năng lực bất tư nghịh cệt. thâm tín trì niệm là đủ, không còn nghi ngờ tính toán gì khác.

    18- năm điều quyết định sự vãng sanh:

    – bổn nguyện của Ðức di-Ðà.

    – lời dạy xác minh của Ðức thích ca.

    – sự chứng minh của chư phật.

    – giáo thích của tổ thiện Ðạo.

    – tín tâm của người niệm phật.

    19- di ðà bổn nguyện phat ra không pHải chú trọng ến hạng thiện nhân có pHương tiện, có thể dùng tự lực ể thoot ly sanh tử, mà chính vì vìng á nhân á nh . tuy nhiên hạng bồ tát, thánh hiền cũng có thể nương vào tha lỰc niỆm phẬt mà được vãng sanh. di-Ðà bổn nguyện không có sự phân biệt, tất cả đều bình đẳng như nhau.

    20- tu thánh Ðạo môn thì cần trí huệ tột cùng để lìa sanh tử. Your tịnh ðộ môn thì trở lại ngu if ể ược vãng sanh, chẳng dựa vào tríous huệ, chẳng lO tròn ạo hạnh, chẳng cần tu tuy dưỡng tánh, mà chỉn tựn mình nguyện di /p>

    thâm tín và hành trì như trên, lúc lâm chung chắc chắn phật lai nghinh. nếu bình thường đã thường xuyên xưng danh tích lũy công ức thì dù choc lúc lâm chung vì lý do nào đó tâm vọng ộng tán loạn bất ịnh không xưng ược ượt ật ượt ượt ượt ượt ượt ượt ật ật ật

    giáo pháp tuy vô lượng nhưng xét đến chỗ cương yếu thì tha lực Ðốn giáo thù thắng hơn cả. tổ huệ viễn (334-416), sơ tổ của tịnh-sal-tông trung hoa, một cao tăng ầu tiên nhấn mạnh ến sự quan trọng của thiền ðnh cor xác nhn: các môn niệm pHật lại

    21- nương tựa bổn nguyện di-Ðà không phải là quán tưởng trong tâm, mà là xƯng niỆm danh hiỆu, đừng trụ tâm ở quán tưẻng mà cẟng mà c.

    xưng danh là chÁnh nhÂn quyết định vãng sanh. ngoài xưng danh ra không có gì quyết định vãng sanh như chánh hạnh, chánh nghiệp, trí huệ…

    22- quyết định quy kết của pháp nhiên thượng nhân: sống thì niệm phật tích lũy công đức, chết thì vãng sanh tây phưc ng c. không có gì trong đời này làm bận tâm nữa.

    khai thỊ vÀ di huẤn cỦa phÁp nhiÊn thƯỢng nhÂn ÐỂ lẠi cho ÐỆ tỬ lÚc lÂm chung:

    Thày mấy chục năm nay, công phu niệm pHật tích lũy, ược bai kiến ​​cực lạc trag nghiêm và chân thn của pHật, bồ tát là việc bình thường, nhưng thày giữ khreg. nay đã đến lúc tối hậu nên mới bày tỏ đôi chút …

    hai ngày trước khi vãng sanh, ngài pháp nhiên lấy but viết bản di huấn tối hậu:

    chẳng phải là niệm phật theo lối quán niệm mà các bậc trí giả trung hoa, nhật bản thường nói đến;

    cũng chẳng phải là niệm phật theo lối phải thâm nhập kinh tạng để thấu hiểu thâm nghĩa của niệm phật.

    chỉ nghĩ rằng: Ðể vãng sanh cực lạc thì xưng niệm nam-mô a-di-đà phật là quyết định vãng sanh, không nghi ngờ mà xưng niệm. ngoài ra, không có thâm áo gì khác.

    bởi vì điều gọi là tam tâm, tứ tu ều đã quyết ịnh bao hàm trong tưởng niệm nam-mô a-di-đà phật, quyết ịnh vãng sanh (xin xem lại 8 Ļ sở). p>

    ngoài đó ra, nếu có gì thâm áo khác là ở ngoài lòng từ mẫn của hai Ðấng từ tôn (phật thích ca và phật a-di-đà), lọt khỏngu in

    người muốn tin niệm pHật thì dù choc cóc phật.

    tôi en vào đy cả hai bàn tay của tôi ể ể xác nhận di huấn này … không còn gì ể nói nữa, tôi đc hết những điềt tủt tủữ ữ đ . /p>

    kẾt luẬn

    ðọc ến đy, chắc co -nhiều bạn chưa tin hẳn vào năng lực bất tư nghị của niệm pHật đã trình bày ở trên, lý do rất dễ hi ểu: hạnh tu gì ơn gi ảNg ả ềng ềng ềng ềng ềng ễng ễng ễng. được mà lại có năng lực thâm mật vi diệu đến thế? Ðể giải trừ nỗi vương vấn pHân vân, một ẩn dụn giải tường tận và chính xáh giúp cac bạn nhất thiết giữ tín tâm tuyệt ðối ối với sáu chữ nam nam-mô a-di

    nếu cùng đi trên con đường gồ ghề có nhiều lối rẽ như băng qua rừng núi thì một người sáng mắt khoẻ chân mới có thể nhất định đi đến đích, một người mù què chân đi phải chống nạng tất nhiên là không thể so sanh được. Ðấy là cả hai người đều dùng tỰ lỰc để di chuyển. nếu cùng dùng đường hàng hải hay đường hàng không thì cả hai người đến tới đích cùng một lúc, nhanh chóng và dễ dàng như nhau. Ðây là cả hai người đều dùng tha lỰc để di chuyển.

    kẻ cầm but thiết tha xin các bạn đã vững tínn tâm và hành trì niệm phật hãy phổ biến tài liệu này ến các bạn ồng ạo còn vƐðmúng ch. Ðó là pháp duyên gieo nhân lành, tích lũy công Ðức, ​​​​xin chớ bỏ qua.

    ai tự nhận thấy mình là người mù què, hãy xưng niệm ngay nam mÔ a-di-ÐÀ phẬt! Ðức a-di-đà sẽ đến đón vãng sanh với lòng thương xót.

    ai tự nhận thấy mình là người sáng suốt khỏe chân, cũng xưng niệm ngay nam-mÔ a-di-ÐÀ phẬt! Ðức a-di-đà cũng sẽ đến đón vãng sanh với lòng hoan hỷ.

    ai tự nhận thấy mình không thuộc một trong hai hạng người vừa kể trên thì người đó không hiểu biết chút gì về bổn nguyện di-ðà, đã tự đánh mất cảt cảt cảt cảt mọi chúng sanh một cách đồng đều, không bỏ sót bất cứ ai.

    duyÊn hẠc lê thái Ất

    chÚ thÍch:

    <p Ruột, pHụ vương là ðức phật ðại thông thắng (sea ruột, pHụ vương là ðức phật ðại thông thắng (maru).

    tịnh -ðộ, tiếng Sanskrit Buddhaksetra Co NGHĩA là pHật ộ, nơi Thanh tịnh, cõi pHật, nơi cuối c cng cần ạt tới, sau đó mới tiến tới chứng nhập niết. mỗi vị phật có một cõi tịnh-Ðộ. cõi tịnh-Ðộ của Ðức a-di-đà gọi là tây phương tịnh Ðộ, tây phương cực lạc, cõi cực lạc. cõi tịnh-Ðộ của Ðức thích ca là tịnh Ðộ phương Ðông bắc, và theo kinh Ðại bát niết bàn cõi này mang tên cõi vô thắng tịnh. Ðức phật di-lặc, vị phật tương lai hiện đang giáo hóa ở cõi trời Ðâu-xuất sẽ tạo ra một tịnh-Ðộ mới.

    2- ao thất bảo: year nước tịnh thủy ể rửa sạch mọi phiền não, Trong đó có bảy vật báu biểu tượng cho tâm tâm tịnh rốt Rao ở cõc cực lạc. lục tổ huệ năng giảng trong pháp bảo ðàn ​​​​kinh: thất bảo tiêu biểu cho bẩy ðại hạnh gồm có kim (giới), ngân (tín), lưu ly (văn), pha-lê (tatun c) ), tinh) xÍch chÂu (huệ) và mão (xả). Ðây là thất thánh tài tức tài sản của chư thánh dùng để nuôi dưỡng chân tâm người trì niệm.

    3- danh hiệu của đức a-di-đà: trong kinh vô lượng thọ, Ðức thích ca bảo a-nan: này a-nan! Ðức phật vô lượng thọ oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh của chư phật chẳng bằng. Kinh vô lượng thọ nói Ðức a-di-đà crus 13 pHật danh, ngoài tên vông lượng thọ phật còn 12 tên khác ều có chữ quang ở sau, with nghĩa là ang sáng chứng tỏ oi thần quangh củc củc củc củc củc củc củc củc c. đà có đặc tính tối tôn đệ nhất:

    1- Vô Lượng quang phật 2- vôn biên quang phật 3- vôi quang phật 4- vô ðối quang phật 5- diệm vương quang pHật 6- THANH TịNH quang phật 7- Hoan Hỷ Quang Phật 8- Trí 9- bất Ðoạn quang phật 10- nan tư quang phật 11- vô xứng quang phật 12- siêu nhật nguyệt quang phật

    4- pháp-nhiên thượng nhân (1133-1212), tên nhật là honen, khai tổ của tịnh-Ðộ tông nhật bản. tiểu sử của ngài cho biết ngài đã mé nghiệp thế gian đúng như chánh nghiệp: làm with một vị quan ến ngoại tứn vẫn chưa có with nối dõi, ngài ra ời sau khi kh n and ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny ny n ật n ny ny ny ny ny ny ny ghm ny ny n ậy ny n ậy n ậy n ậy ny ny ny ny ghm ny ny ny ny ghm ny ny ghm ny ny gh g ny ny ghij ho. khi ngài đản sinh có hai luồng hào quang ở trên không chiếu xuống, tiếng chuông ngân vang. ngài có tướng mạo phi phàm từ thuở sơ sinh.

    khi ngài chín tuổi, phụ thân bị địch quân sát hại. lúc lâm chung, vị quan thất thế kêu ngài đến dạy: Ðây là túc nghiệp của cha, tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. hãy nhớ rằng oán không thể diệt được oán!… sau này thành nhân, with hãy cầu vãng sanh cực lạc, lợi lạc bình đẳng cho người vhà m

    năm 14 tuổi, tuân theo lời cha dạy ngài xuất gia với pháp sư giác quán ở chùa bồ Ðề tại quê nhà. pháp sư giác quán thấy ngài thông tuệ khác thường liền đưa ngài đến một tu viện nổi tiếng ở kinh đô để tham học với pháp yưn quangu sư không bao lâu pháp sư nguyên quang lại tiến cử ngài tham học với tổ hoàng viên tông thiên thai thời đó. thu nhận ngài làm ệ tử chưa ầy ba năm, tổ hoàng viên thấy ngài đã thấu triệt tất cả những áo diệu của giáo pháp thai thai cón ý chon ý muố. nhận thấy ở nhật bản thời đó một chức sắc trong giáo quyền được hưởng rất nhiều quyền lợi, vì không muốn bị ràng buộc lợi danh ngài ra đi vào năm 18 tuổi đến ẩn tu ở núi hắc cốc, tham học với hòa thượng duệ không , một vị cao tăng của mật tông thời bấy giờ. hòa thượng duệ không ặt pháp hiệu cho ngài là pháp nhiên, có nghĩa pháp vốn như vậy và pháp danh là nguyn không, ghá ạ à à à à à à à ở. . tại đây ngài được truyền thụ viên thừa Ðại giới và du già bí pháp. ngài tinh thông mọi tông phái, duyệt đọc 5 lần Ðại tạng nên được đương thời tôn xưng là trí huệ Ðệ nhất.

    về giáo pháp, dưới nhãn quan của ngài thì xưng danh niệm phật vừa là chánh hạnh, chánh nhân và chánh nghiệp trong đời sống thế gian. lưu ý tại nhật bản có hai tông phai dễ gây ngộ nhận: tịnh -ðộ tông, tiếng nhật là jodo -shu, khai tổ làp nhii và tịnh -ðộ chân tông, tiếng nhật ề this do do do do do sawhu. đệ tử của khai tổ pháp nhiên biến thái lập riêng ra.

    5- thiện Ðạo Ðại sư theo truyền thuyết của trung hoa là hóa thân của phật a-di-đà.

    theo: chùa phúc lâm

    • bài 01: yếu nghĩa của nam mô a-di-đà phật
    • bài 02: Ý nghĩa niệm “nam mô a di Đà phật”
    • bài 03: Ý nghĩa của 6 chữ: nam mô a di đà phật
    • ->bài đọc thêm:

      • pháp môn niệm phật trong kinh a di Đà
      • Đức phật a di Đà và cõi tịnh Độ cực lạc
      • kinh vô lượng thọ phật – thích trí tịnh dịch
      • kinh a di ÐÀ
      • 48 pháp niệm phật
      • các trường hợp luân hồi trên thế giới & vietnamese
READ  Quy định trang phục Công an nhân dân

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *